|   1) Thu Sắc uẩn: 
				 
				Phật dạy rằng: 
				 
				- A Nan! Tại sao ngũ uẩn chính là Như Lai tạng, là tánh chân như 
				nhiệm mầu? A Nan! Ví như có người dùng mắt thanh tịnh để nhìn 
				bầu trời quang đãng, chỉ thấy một khoảng không trong vắt. Người 
				kia vô cớ nhìn sững chẳng nháy mắt, nhìn lâu hóa ra mỏi mệt,Bottom 
				of Form nên thấy hoa đóm loạn xạ 
				trong hư không, lại là tất cả tướng giả dối không thật. Nên 
				biết, ngũ uẩn cũng như vậy. A Nan! các hoa đóm lăng xăng ấy 
				chẳng phải từ hư không mà đến, cũng chẳng phải từ mắt mà ra. 
				Đúng vậy, A Nan! Nếu từ hư không đến, thì phải trở về với hư 
				không. Nếu có ra có vào tức chẳng phải hư không. 
				Hư không nếu chẳng không 
				thì chẳng được tướng hoa đóm sinh diệt kia. Như thân thể A Nan 
				thì chẳng dung nạp thêm một A Nan nào nữa. Nếu hoa đóm từ mắt mà 
				có thì phải trở về trong mắt. Nếu tánh của hoa đóm từ mắt mà có 
				thì lẽ ra nó phải thấy được. Nếu nó thấy được thì khi làm ra hoa 
				đóm giữa hư không, khi trở về nó phải thấy con mắt. Lại nữa, khi 
				thấy hoa đóm, lẽ ra mắt không mờ. Tại sao khi thấy hư không 
				trong lặng, mới gọi là con mắt trong sáng. Do vậy nên biết rằng 
				sắc uẩn không thật, vốn chẳng phải tánh nhân duyên, chẳng phải 
				tánh tự nhiên. 
				 
				Ngũ uẩn vốn là bản tánh nhiệm mầu của Chơn tâm, Phật tánh hay 
				Như Lai Tạng, nhưng bởi sự vọng niệm đối đãi với cảnh vật bên 
				ngoài mà ngũ uẩn biến thành năm thứ giặc làm ngăn che trí tuệ và 
				sự thanh tịnh của bản tâm vì thế trong đoạn kinh này đức Phật 
				muốn thu ngũ uẩn lại để chúng sinh có thể nhìn thấu suốt, không 
				còn che đậy bởi những tướng giả dối đó để quay về sống với chơn 
				tâm, với bản lai diện mục của chính mình mà có an vui, tự tại, 
				thanh thoát an nhàn. 
				 
				Sắc uẩn là chỉ cho thân xác của con người hay nói rộng hơn là 
				chỉ cho tất cả những vật thể trong thế gian vũ trụ này. 
				 
				Khi nói bốn khoa và thất đại là một cách phân chia để dễ phân 
				tích chớ thật ra trong ngũ uẩn đã bao trùm bốn khoa và thất đại 
				rồi. Nói cách khác tất cả những hiện tượng duyên khởi trên thế 
				gian này không ngoài bốn khoa, bảy đại tức là đều do ngũ uẩn 
				duyên khởi mà ra. Khi nói về con người thì sắc là sắc thân thất 
				đại, còn nói về vũ trụ vạn hữu thì sắc là núi sông, mây nước, cỏ 
				cây, hoa lá, mặt trời, mặt trăng, chim bay, cá lặng… Đối với con 
				người thì thọ, tưởng là tâm sở tức là các sở hữu của tâm vương. 
				Tâm vương thì gồm có : 
				 
				- Nhãn thức : cái biết của mắt. 
				- Nhĩ thức : cái biết của tai. 
				- Tỷ thức : cái biết của mũi. 
				- Thiệt thức : cái biết của lưỡi. 
				- Thân thức : cái biết của thân. 
				- Ý thức : cái biết của ý. 
				- Mạt na thức. 
				- A lại da thức. (Xin quý độc giả quay về trang 96 để biết thêm 
				chi tiết về Mạt na thức và A lại da thức). 
				 
				Tâm vương là tự chủ, tự quyết định. Thí dụ, khi mắt thấy chiếc 
				xe thì tâm liền phân biệt để biết rằng chiếc xe này tốt hay xấu. 
				Nếu cái thấy cho rằng chiếc xe đó là tốt thì tâm tham phát khởi 
				muốn chiếm lấy. Còn cái thấy của con mắt cho rằng chiếc xe xấu, 
				không giá trị nên muốn bỏ đi. Vậy cái tánh thấy đó chính là phần 
				chủ động để có sự phân biệt tốt xấu trong tâm thức cho nên nhãn 
				thức này mới được gọi là nhãn thức tâm vương. Nhĩ thức cũng thế, 
				vì có tâm phân biệt nên con người chỉ muốn nghe những câu vừa 
				lòng mát dạ còn những chuyện trái ý nghịch lòng thì không muốn 
				nghe. Do đó muốn nghe hay không là do nhĩ thức phân biệt của lỗ 
				tai nên mới gọi nhĩ thức tâm vương là vậy. Cái mũi ngửi để phân 
				biệt mùi hương, hương vị nào thơm thì thích còn mùi hôi thúi thì 
				chê ghét xa lánh. Cái lưỡi thì thích nếm mùi vị thơm ngon còn 
				mùi chua, vị đắng thì bỏ đi. Cái thân muốn tiếp xúc với cảm giác 
				êm đềm, mềm mại và chán ghét đau đớn khi đụng phải chông gai. Sự 
				biết, sự phân biệt của năm thức ở trên để có cái thích hay không 
				thích thì gọi là ý thức tâm vương. 
				 
				Sáu thức ở trên thì cả Tiểu thừa và Đại thừa cùng chấp nhận, 
				nhưng dựa theo tư tưởng của Đại thừa thì tâm thức con người còn 
				được thể hiện qua thức thứ bảy là Mạt na thức và thức thứ tám là 
				A lại da thức. 
				 
				- Mạt na thức là tánh chấp ngã của con người rất vi tế mà còn 
				được gọi là phản xạ tự nhiên. Thí dụ như khi có ai đưa ngón tay 
				vào mắt mình thì phản ứng tự nhiên để bảo vệ cho thân là mắt 
				nhắm lại. Một thí dụ khác là nếu ai đánh ta thì phản ứng tự 
				nhiên là mình đưa tay lên đỡ. Đỡ là để bảo vệ cho ta, cho bản 
				ngã. 
				 
				- A lại da thức tức là tàng thức. Tàng thức thì bao trùm khắp cả 
				mười phương thế giới vô cùng vô tận, như khi nó tác động vào con 
				người ví cũng như hư không vào trong cái ly, cái chum, cái ché 
				vậy. Tuy hư không trong cái ly, cái chum rất nhỏ bé so với vũ 
				trụ, nhưng tánh hư không thì không khác. Vì thế mà con người và 
				vũ trụ tuy hình tướng, kích thước có khác nhau, nhưng thật tánh 
				thì không khác nên cổ đức có câu : “Nhân thân tiểu vũ trụ” nghĩa 
				là thân này là một bầu vũ trụ thu nhỏ lại cho nên nếu bên ngoài 
				thời tiết thay đổi mà thân mình chưa thay đổi theo thì thân mới 
				sinh ra đau ốm là vậy. Thời tiết có bốn mùa: hè nóng nên thân 
				muốn dùng vật lạnh, đông lạnh thì thân muốn tiêu thụ vật nóng… 
				cho nên vũ trụ thế gian biến đổi thì thân cũng biến đổi theo. 
				Nói tóm lại, sắc uẩn là cho mọi vật thể trên thế gian kể cả sắc 
				thân tứ đại của con người. 
				 
				Trong Duy thức luận thì tâm sở có 51 món và được chia làm 6 loại 
				: 
				 
				- Biến hành (Xúc, Tác ý, Thọ, Tưởng, Tư). 
				- Biệt Cảnh (Dục, Thắng giải, Niệm, Định, Huệ). 
				- Thiện (Tín, Tàm, Quí, Vô tham, Vô sân, Vô si, Tinh tấn, Khinh 
				an, Bất phóng dật, Hành xả, Bất hại). 
				- Căn bản phiền não (Tham, Sân, Si, Mạn, Nghi, Ác Kiến). 
				- Tùy phiền não (Phẩn, Hận, 
				Phú, Não, Tật, Xan, Cuồng, Siểm, Hại, Kiêu, Vô tàm, Vô quý, Trạo 
				cử, Hôn trầm, Bất tín, Giải đãi, Phóng dật, Thất niệm, Tán loạn, 
				Bất chánh tri). 
				- Bất định ( Hối, Miên, Tâm, Tư). 
				 
				Nhìn chung trong 51 món tâm sở chỉ có 11 phần thuộc về thiện còn 
				lại 40 phần thuộc về bất thiện cho nên khi đối diện với cuộc 
				sống con người có nhiều khuynh hướng chạy theo tham đắm si mê là 
				như vậy. Vì Thọ, Tưởng thuộc về Biến hành nên trong vũ trụ đã có 
				sẵn những chủng tử hay những hạt nhân nghĩa là trong bản thể Như 
				Lai Tàng đã có sẵn hạt giống Thọ, Tưởng rồi. Khi con người được 
				sinh ra thì Thọ, Tưởng tác động vào thành Tâm sở của người ấy. 
				Hành Uẩn và Thức Uẩn cũng thế, chúng đã có sẵn những chủng tử 
				trong bản thể Như Lai Tàng (A lại da thức) trong hư không vô 
				cùng vô tận để tác tạo thành Tâm vương. 
				 
				Do đó từ ngũ uẩn duyên khởi thành con người tức là loài hữu tình 
				chúng sinh (thất đại) và những loài vô tình chúng sinh (ngũ đại) 
				như cỏ cây, hoa lá, sông núi, trăng sao… Con người vì có đủ lục 
				căn mới sinh ra lục nhập để thu nạp lục trần mà phát khởi những 
				sự phân biệt thương ghét, tốt xấu… Sau cùng sáu giới của căn 
				(Nhãn giới, Nhĩ giới, Tỷ giới, Thiệt giới, Thân giới và Ý giới) 
				duyên với sáu giới của trần (Sắc giới, Thanh giới, Hương giới, 
				Vị giới, Xúc giới và Pháp giới) phát sinh sáu giới của thức (Nhản 
				thức giới, Nhĩ thức giới, Tỷ thức giới, Thiệt 
				thức giới, Thân thức giới và Ý thức giới) để tạo thành mười tám 
				giới. 
				 
				Trong đoạn kinh trên tại sao Phật lại nói ngũ uẩn là tánh chân 
				như nhiệm màu của Như Lai Tạng? Đức Phật dạy rằng tất cả các 
				tướng (ngũ uẩn) trong thế gian này đều là huyển hóa, do phân 
				biệt mà có và cũng theo phân biệt mà diệt. Nhưng thật tánh của 
				các tướng huyển hóa đó lại là thể tánh chân như cho nên tâm Phật 
				và tâm của chúng sinh không hề sai khác, bình đẳng như nhau. Khi 
				duyên đến, chính cái thể tánh chân như lại phát khởi, tác dụng 
				mà tạo thành thế giới vũ trụ để có thiên hình vạn tướng tức là 
				bất biến tùy duyên. Vì sự biến hóa kỳ ảo này nên mới gọi là thể 
				tánh chân như nhiệm mầu tức là Như Lai Tạng vậy. 
				 
				Bây giờ Phật mới đưa ra thí dụ sắc uẩn ví cũng như hoa đóm giữa 
				hư không. Nếu một người có nhãn căn thanh tịnh, khi nhìn vào 
				trong hư không thì không thấy gì cả, nghĩa là chỉ thấy tất cả 
				đều là trong sáng. Nhưng nếu người đó cứ nhìn chăm chăm, không 
				chớp mắt làm cho con mắt bị mỏi mệt thì cái nhìn bây giờ người 
				đó lại thấy hoa đóm hiện ra giữa hư không. Thế thì hoa đóm thật 
				sự không phải từ hư không mà đến và cũng không phải từ con mắt 
				mà ra. Tại sao? Bởi vì nếu nó từ hư không mà đến thì rồi phải 
				trở vào hư không, nhưng nếu hoa đóm có ra có vào thì hư không 
				đâu còn là hư không nữa? 
				Còn nếu nó từ con mắt mà ra 
				thì nó phải trở vào con mắt. Nếu hoa đóm từ con mắt mà ra thì 
				khi trở về, nó phải thấy con mắt, nhưng có hoa đóm nào thấy được 
				con mắt đâu! Thêm nữa, hoa đóm hiện ra giữa hư không làm mờ hư 
				không vì hư không không còn trong sáng như trước cho nên nếu hoa 
				đóm trở vào con mắt thì nó sẽ làm mờ con mắt, nhưng nếu hoa đóm 
				đã trở vào con mắt nghĩa là hoa đóm không còn hiện ra giữa hư 
				không nữa thì hư không bây giờ trở thành trong sáng tức là cái 
				nhìn bây giờ là cái nhìn của người có nhãn căn thanh tịnh rồi. 
				Vì vậy nếu thấy hư không trong suốt nghĩa là hoa đóm không làm 
				mờ con mắt thì hoa đóm làm sao có thật được. 
				 
				Do vậy, thì biết tất cả hình tướng sự vật đều do nhận thức sai 
				lầm mà biến hiện ra. Chúng là giả dối, không thật, không phải 
				nhân duyên, cũng không phải tự nhiên mà có. Tướng giả dối của 
				con mắt là do nhìn mệt mỏi sinh ra, còn tướng giả dối của chúng 
				sinh là do nghiệp lực sinh ra. Vì thế sắc uẩn là tướng giả dối 
				mà chúng sinh chấp theo trần cảnh nên tin là thật làm che lấp 
				tâm tánh chân như nhiệm mầu. Người mê thì chấp theo tướng trần 
				cảnh nên chạy theo vui buồn, sầu khổ, tham đắm lợi danh; còn kẻ 
				trí thì biết tướng trần cảnh là không thật cũng như bóng trong 
				gương nên dễ dàng quay về với tự tánh thanh tịnh bản nhiên thì 
				có an lạc Niết bàn, không còn gì ngăn che cả. 
				 
				2) Thu Thọ uẩn: 
				 
				A Nan! Ví như người tứ chi yên ổn, cơ thể điều hòa, không bị 
				vui buồn tác động, tịch tĩnh như quên mình. Bỗng nhiên người kia 
				đưa hai tay lên không xoa nhau, sanh cảm xúc: nóng, lạnh, trơn, 
				rít… Thọ uẩn cũng như vậy. 
				 
				A Nan! Những cảm xúc hư vọng kia, không phải từ hư không đến. 
				Không phải từ bàn tay ra. Nếu từ hư không đến sinh cảm giác từ 
				bàn tay, sao không sanh cảm xúc nơi thân thể? Không lẽ hư không 
				biết lựa chỗ để sanh cảm xúc? 
				 
				Nếu từ bàn tay ra, thì khi bàn tay hợp lại, biết có cảm xúc; đến 
				khi bàn tay rời ra thì cảm xúc phải chạy vào xương tủy cánh tay. 
				Lẽ ra phải biết đường vào của cảm xúc, rồi lại phải có tâm hay 
				biết, biết ra biết vào và phải có một vật đi lại trong thân chớ 
				cần chi phải đợi hai bàn tay hợp lại xoa nhau mới gọi là cảm 
				xúc. Vậy nên biết rằng thọ uẩn là hư vọng không phải tánh nhân 
				duyên cũng không phải tánh tự nhiên. 
				 
				Thọ uẩn là sự cảm nhận những cái vui, cái buồn mỗi khi lục căn 
				tiếp xúc với lục trần. Khi có người cho tiền thì con người cảm 
				nhận cái vui, nhưng nếu số tiền này bị ăn trộm lấy mất thì bây 
				giờ niềm vui biến mất mà cảm thọ nổi buồn. Còn thấy tiền mà 
				không tham, không ham muốn thì không cảm thọ gì hết tức là vô ký 
				thọ. Đối với Phật giáo thì con đường duy nhất để đạt đến tâm 
				thanh tịnh Niết bàn là vô ký thọ. Khi con người bên ngoài không 
				bị lục trần quyến rũ, bên trong không bị kích động bởi tham lam, 
				giận hờn và si mê thì không còn cảm thọ tức có tâm thanh tịnh 
				Niết bàn. 
				 
				Khi nói về thọ uẩn Phật đưa ra thí dụ rằng nếu có người lấy hai 
				bàn tay xoa vào nhau thì phát sinh ra những cảm giác như nóng, 
				lạnh, trơn, rít… Như khi vào mùa đông lạnh buốt, chúng ta thường 
				xoa hai bàn tay lại với nhau khoảng vài phút thì sự cọ sát làm 
				nóng hai bàn tay. Khi hai bàn tay nóng thì chúng ta cảm thọ sự 
				ấm cúng làm cho toàn thân dễ chịu đôi phần. Nếu chúng sinh dùng 
				thức tâm để phân biệt thì chắc chắn sẽ nói rằng nhờ hai bàn tay 
				xoa vào nhau mới sinh ra những cảm xúc nóng lạnh. Nhưng Đức Phật 
				khẳng định rằng những cảm giác tức là thọ uẩn nầy không phải từ 
				hư không đến mà cũng chẳng từ bàn tay mà ra. Tại sao? 
				 
				1) Nếu cho rằng những cảm giác lạnh, nóng, trơn, rít mà từ hư 
				không đến thì hư không bao trùm toàn thân chớ đâu có nhất định 
				một chỗ bàn tay. Vì thế nếu luồng cảm giác này thật sự từ hư 
				không đến thì toàn thân cảm nhận được. Nhưng cảm giác này chỉ 
				nhận biết được ở bàn tay thế thì lý luận này không đúng. 
				2) Còn nếu cảm giác đến từ 
				bàn tay mà ra thì không cần hai bàn tay cọ sát với nhau mới tạo 
				nên cảm giác mà mỗi bàn tay tự nó phát ra những cảm xúc này rồi. 
				Nhưng trên thực tế nếu không có sự cọ sát của hai bàn tay với 
				nhau thì không thể có nóng, lạnh được. Vì những cảm giác nóng 
				lạnh có được là do sự cọ sát chớ tự nó không có được nên thọ uẩn 
				là tướng giả dối, không thật. Cũng như khi mê chúng sinh thấy có 
				địa ngục a tỳ vì đây là những tướng giả dối từ thức tâm sinh 
				diệt hiện ra. Nhưng khi thức tỉnh, con người quay về với chơn 
				tâm thanh tịnh thường trú của mình thì thức tâm biến mất, cảnh 
				địa ngục a tỳ cũng tan biến theo. 
				 
				3) Thu Tưởng uẩn: 
				 
				Bây giờ Phật dạy rằng : 
				-A Nan! Ví như có người 
				nghe nói đến me chua thì nước bọt trong miệng chảy ra. Nghĩ đến 
				cảnh khi đứng trên dốc cao thì lòng bàn chân cảm thấy rờn rợn, 
				nên biết tưởng uẩn cũng như vậy. 
				 
				A Nan! Nếu từ me sinh ra thì me tự biết nói, đâu cần đợi người 
				nói. Nếu từ miệng mà vào thì tự nhiên đã nghe tiếng, đâu cần đến 
				tai nghe. Nếu riêng lỗ tai nghe, sao nước bọt không chảy lỗ tai 
				lại tuôn ra miệng? Việc nghĩ tưởng mình đứng trên dốc cao cũng 
				giống như vậy. 
				 
				Vậy nên biết rằng tưởng uẩn là hư vọng, không phải tánh nhân 
				duyên cũng không phải tánh tự nhiên. 
				 
				Tưởng là nhớ lại hình bóng vui khổ của thân và tâm. Có lúc con 
				người liên tưởng sự khoái lạc của những món ăn ngon. Cũng đôi 
				khi chúng sinh liên tưởng những cảnh bực bội đau khổ khi người 
				khác mắng chửi mình. Do đó, sau khi lục căn tiếp xúc với lục 
				trần để lãnh thọ các cảnh khổ vui và sau đó sanh ra tưởng nhớ. 
				 
				Phật đưa ra hai thí dụ ở trên để cho chúng ta nhận thấy rằng tác 
				động của những danh tướng đối với tâm rất quan trọng. Thí dụ thứ 
				nhất khi lỗ tai chỉ vừa mới nghe nói đến me chua thì tâm đã 
				tưởng tượng như miệng đang ăn me chua nên nước bọt trong miệng 
				mới chảy ra. Nếu cho rằng vì nhân duyên mà có nghĩa là nước bọt 
				có là do me sinh ra tức là cái biết là do me nói chớ không phải 
				do người nói. Nhưng ở đây đâu thật có me và dĩ nhiên me làm gì 
				biết nói nên do nhân duyên sinh là không đúng. Còn nếu nói tự 
				nhiên thì nếu me mà được đưa vào miệng thì tự nhiên đã nghe 
				tiếng chớ đâu cần phải đến tai nghe. Bởi vì nếu lỗ tai nghe thì 
				đáng lẽ ra lỗ tai phải chảy nước bọt chớ đâu phải miệng. Khi 
				nghĩ đến cảnh đứng trên dốc cao thì lòng bàn chân cảm thấy rờn 
				rợn, bắt đầu nổi tóc gáy vì sợ mình sắp rơi xuống vực thẳm. 
				Đây chỉ là do sự tưởng 
				tượng mà ra vì thật sự mình đâu có đứng trên dốc cao. Vậy tưởng 
				uẩn không phải là nhân duyên và cũng chẳng là tự nhiên. Con 
				người thường đặt tên cho các sự vật trong thế gian này để phân 
				biệt mà gọi, nhưng rồi lại nương theo những tên gọi mà tưởng 
				tượng ra sự vật và từ đó mới phát sinh ra lòng tham đắm si mê 
				cũng vì những danh tướng giả dối, không thật mà tạo ra lắm điều 
				tội ác để phải chịu quả khổ đời đời. Chính ngũ uẫn là những đám 
				mây đen hắc ám che đậy ánh sáng huyền diệu của bản tâm thanh 
				tịnh làm con người sống xa dần với chân tánh của họ. 
				 
				Có một câu chuyện trong kinh Na Tiên Tỳ Kheo như sau : 
				 
				Vua Di Lan Đà ngự đến chùa San khế đa (Sankheyya), chỗ đại đức 
				Na Tiên bây giờ đang tạm trú với tám chục tỳ kheo, ông tiến đến 
				trước mặt đại đức và cung kính vái chào. Đại đức đáp lễ. Sau lễ 
				tương kiến, nhà vua cung kính ngồi né một bên. Bây giờ, vua khởi 
				chuyện hỏi rằng : 
				 
				- Kính bạch Đại Đức, trẩm muốn hỏi ngài ít câu có được không? 
				 
				- Xin Đại Vương cứ phán hỏi, bần tăng xin nghe. 
				 
				Nhà vua khởi chuyện hỏi rằng : 
				 
				- Bạch Đại Đức, quý danh là gì? 
				 
				- Người ta gọi bần tăng là Na Tiên. Các pháp hữu của bần tăng 
				cũng gọi bần tăng bằng tên ấy. Nhưng dù cho cha mẹ của bần tăng 
				cũng gọi bần tăng bằng tên ấy hay cho dù cha mẹ bần tăng có đặt 
				cho bần tăng tên Na Tiên (Nagasena) hay một tên nào khác, chẳng 
				hạn như Duy Tiên (Viranasena), Thủ La Tiên (Surasena) hoặc Duy 
				Ca Tiên (Sihasena)…, thì chẳng qua cũng chỉ là những tên suông, 
				đặt ra để phân biệt người nọ với người kia mà thôi. Trong những 
				cái tên đó không hề có cái “ta” hay cái “của ta” như tà kiến và 
				ngã chấp thường lầm nhận. 
				 
				Ngày hôm sau, nhà vua lại cho mời Tỳ kheo Na Tiên vào cung để 
				đàm đạo, dọc đường có quan đại thần A Năng Ta Ca Da đi hộ vệ 
				cạnh Na Tiên để lân la hỏi đạo, bèn bạch rằng : 
				 
				- Bạch Đại Đức, hôm qua ngài có nói với đức vua rằng ngài tên là 
				là Na Tiên; sau đó ngài phủ quyết lại rằng không có Na Tiên. Vậy 
				chớ ai là Na Tiên? Cái gì là Na Tiên? 
				 
				- Theo ông nghĩ cái gì là Na Tiên? 
				 
				- Theo tôi nghĩ, hơi thở tức mạng khí có vô có ra, chính đó là 
				Na Tiên. Vì nhờ hơi thở đó mà sanh mạng được duy trì. 
				 
				- Nếu hơi thở kia có ra mà không có vô thì người có hơi thở ấy 
				có sống không? 
				 
				- Người ấy chắc chắn phải chết. 
				 
				- Hơi thở của người thổi kèn, thổi sáo, hay thổi ống bễ thợ rèn, 
				hơi thở đó ra rồi có trở vô không? 
				 
				- Thưa không. 
				 
				- Thế thì những người ấy sống hay chết? 
				 
				A Năng Ta Ca Da sững sờ ngơ ngác không biết nói sao. Giây lâu 
				mới bạch lại rằng : 
				 
				- Bạch Đại Đức, trí tuệ của Đại Đức thật là siêu việt. Tôi không 
				đủ thông minh để hiểu thấu. Xin Đại Đức khai thị giúp cho. 
				 
				- Này Đại quan, hơi thở chẳng qua cũng chỉ là một phần việc 
				trong nhiều phần việc của thân thể mà thôi. Cũng như phần việc 
				của cái lưỡi là nói ra những điều gì mình suy nghĩ, mình cảm hay 
				phần việc của cái ý là suy tư những điều gì xúc… Mỗi bộ phận 
				trong cơ thể đều có phần việc của nó. Đó là điều được mệnh danh 
				là “thân hành” hằng trú trong năm uẩn, nhất là trong Sắc uẩn. 
				Phân tích các hành tướng của thân hành thì thấy toàn là trống 
				không, vì vậy mà nói rằng : Không có Na Tiên. 
				 
				Tên là do cha mẹ đặt cho con khi mới sinh ra, ngay cả pháp danh 
				cũng do quý thầy cô đặt cho khi mới thọ quy y học Phật pháp, 
				nhưng tên là văn tự tức là tướng giả dối, không thật mà con 
				người cứ tin chắc nó là mình, là của mình, là cái ngã bền chắc 
				nhất làm nền tảng cho cuộc sống. Vì nghĩ rằng cái ngã này của 
				riêng mình cho nên sống giữ chết đem theo, bám chặt lấy nó, 
				nhưng thật ra con người làm gì có cái ngã. Cái bản ngã giả dối 
				mà con người tin là thật thì thật ra nó chỉ là sự biến dịch của 
				Mạt na thức để phát triển lòng tham đắm si mê. 
				Ngay cả linh hồn thì Phật 
				giáo cũng phủ nhận vì nó không có bởi vì cái mà con người nghĩ 
				rằng đó là linh hồn thì nó chỉ là những chuỗi thức nằm trong 
				Tàng thức biến hiện dựa theo nghiệp lực chớ đâu có cố định cứng 
				ngắc. Vì thế, người biết tu tâm dưỡng tánh thì họ có thể biến 
				những chủng tử bất thiện thành những chủng tử thiện và khi tu 
				hành đến chỗ minh tâm kiến tánh thì tất cả những chủng tử thiện 
				ác cũng biến mất mà thay bằng chủng tử vô ký. Đây là chứng được 
				vô sanh pháp nhẫn, viễn ly sinh tử vậy. 
				 
				4) Thu Hành uẩn: 
				 
				Phật lại dạy rằng : 
				 
				- A Nan! Ví như dòng nước dốc cuồn cuộn 
				tương tục tuôn chảy. Dòng nước không nhân hư không mà sinh, 
				không nhân nước mà có. Nó không phải tánh nước nhưng không ngoài 
				hư không và nước. A Nan! Nếu nhân hư không mà sinh thì mười 
				phương hư không vô cùng tận, nước vô tận, thế gian này chìm đắm 
				cả rồi sao? Nếu nhân nước mà có thì dòng nước dốc không là nước 
				nữa. Bởi vì, ai cũng có thể chỉ tướng của nước và dòng nước khác 
				nhau. Nếu dòng nước dốc là tánh nước thì khi nước đứng lại, lẽ 
				ra không phải là nước nữa. Nếu ra ngoài hư không và nước thì 
				không có cái gì ở ngoài hư không và ở ngoài nước ra không thể có 
				dòng nước. 
				 
				Vậy nên biết rằng hành uẩn là hư vọng, không phải tánh nhân 
				duyên cũng không phải tánh tự nhiên. 
				 
				Hành là sự biến chuyển thay đổi của tâm niệm. Con người lúc nào 
				cũng suy nghĩ về quá khứ, hiện tại và vị lai. Suy nghĩ về mình, 
				về người, về giàu, về nghèo khó, về công danh, về sự nghiệp, về 
				sắc diện, về tinh thần, về vật chất… Ý niệm sau thay thế ý niệm 
				trước và cứ thế mà sanh khởi liên tục trong tâm của con người 
				cho nên cổ đức mới có câu : “Tâm viên mã ý” là vậy. Tưởng uẩn và 
				hành uẩn là nguyên nhân phát sinh ra ý niệm làm che lấp chơn 
				tâm, Phật tánh của chúng sinh vì thế, nếu tu theo Tiểu thừa một 
				khi diệt được tưởng, thọ thì tâm được thanh tịnh và vào hàng 
				Thánh giả A la hán. Còn tu theo Đại thừa thì thành Thất địa 
				Bồ-tát. 
				 
				Ở đây Phật ví hành uẩn như một dòng nước dốc, lớp nước sau nối 
				tiếp lớp nước trước liên tục không ngừng nghỉ. Luồng tâm niệm 
				của con người cũng thế, ý niệm sau thay thế ý niệm trước và cứ 
				như thế mà lưu chuyển trong A lại da thức làm cho con người luôn 
				suy nghĩ, tưởng nhớ và chạy theo tiền trần tức là chạy theo sắc 
				tài danh lợi làm cho tâm bất tịnh. Đối với người tu Phật thì 
				hành uẩn là quan trọng nhất vì nếu phá được hành uẩn tức là 
				chúng sinh đã phá được nguồn gốc của tất cả những niệm khởi thì 
				lúc đó chơn tâm, Phật tánh mới hiện bày. 
				Dòng nước không phải nhân 
				hư không mà sinh nghĩa là dòng nước không phải tự nhiên mà có. 
				Tại sao? Bởi vì nếu hư không mà sinh ra nước thì thế gian vũ trụ 
				này sẽ trở thành cái biển lớn và sẽ không còn là hư không nữa, 
				lý luận này không đúng. Khi thấy nước chảy thì gọi là dòng nước 
				nghĩa là trạng thái sinh diệt, trạng thái động của nước; còn 
				nước không chảy thì gọi là nước yên nghĩa là trạng thái tĩnh, 
				trạng thái yên lặng của nước. Vì thế Đức Phật cho rằng tướng 
				hành uẩn là tướng giả dối, nó không phải là tánh của nhân duyên 
				và cũng không phải là tánh của tự nhiên hợp thành. Đức Phật muốn 
				chúng sinh thấy rằng hành uẩn chỉ là tướng giả dối do duyên với 
				ngoại cảnh mới có. 
				Vì thế hành tướng tâm niệm 
				thì sinh sinh diệt diệt, không phải do thể tánh chân như thường 
				trụ bất diệt sinh ra và cũng không phải là bản tánh của tự tâm, 
				nhưng chúng cũng không ra ngoài tự tâm và thể tánh chân như 
				được. Tuy tâm niệm là giả dối nên sinh thì không thật sinh và 
				diệt thì cũng không thật diệt, nhưng thật chất của nó vốn là tâm 
				tánh chân như nhiệm mầu. 
				 
				5) Thu Thức uẩn: 
				 
				A Nan! Ví như người lấy cái độc bình tần già, bịt cả hai lỗ, 
				trong có đựng đầy hư không, đi xa ngoài nghìn dặm, tặng cho một 
				nước khác. Hư không đó, chẳng phải đến từ bên nước kia, cũng 
				không phải đưa vào nước bên này. Vì, nước được tặng, hư không 
				chẳng được thêm ra. Nước đem cho không vì vậy, hư không vơi bớt.  
				Vậy nên biết rằng thức uẩn là hư vọng, không phải nhân duyên 
				cũng không phải tự nhiên. 
				 
				Thức là sự hiểu biết phân biệt. Mỗi khi lục căn tiếp xúc với lục 
				trần thì tạo thành sáu thức nghĩa là sáu cái biết phân biệt ở 
				trong tâm của chúng sinh. Nếu lúc nhãn căn mới chạm vào sắc trần 
				thì gọi là “hiện lượng” tức là thể sáng suốt của tám thức. Khi 
				niệm thứ hai khởi tâm phân biệt thì gọi là “tỷ lượng” tức là 
				thuộc về ý thức phân biệt. Do đó con người vì tính nhạy bén phân 
				biệt nên cái ý niệm thấy ban đầu (hiện lượng) tức là tánh thấy 
				sáng suốt biến mất mà được thay bằng ý thức phân biệt tốt xấu 
				(tỷ lượng)… nên trong tâm chất đầy phiền não khổ đau, bất toại 
				ý. 
				 
				Bây giờ Phật ví dụ thức ấm như người lấy một cái độc bình, hình 
				dáng như con chim, bịt kín cả hai lỗ, trong đựng đầy hư không và 
				đem đi xa ngàn dặm mà tặng cho nước khác. Vậy đoạn kinh này Phật 
				muốn nói gì? Cái độc bình mà Phật ví dụ ở đây là ám chỉ cho tấm 
				thân thất đại của chúng sinh. Còn hư không là muốn nói đến thức 
				tâm, bản Ngã tức là Tàng thức của họ. Và đem đi ngàn dặm mà tặng 
				cho nước khác là ý nói Tàng thức chuyển từ thân cũ sang thân 
				mới, sinh sinh diệt diệt. Trên con đường tái sinh, thức tâm luôn 
				cho nó là một Bản Ngã, là một chủ thể cao thượng hơn tất cả 
				những sự vật khác trong thế gian vũ trụ này. Cái Bản Ngã giả dối 
				hay chủ thể không thật này đem theo tất cả những tập quán, những 
				kinh nghiệm của những kiếp sống quá khứ mà tái sinh vào trong 
				đời sống mới. 
				  
				Thí dụ như một ông Bác sĩ 
				khi tái sinh vào một thân xác mới thì ông ta đã có sẵn kinh 
				nghiệm và kiến thức y khoa cho nên ông có rất nhiều cơ hội để 
				trở thành bác sĩ hơn những người bình thường khác. Một thí dụ 
				khác là Lục tổ Huệ Năng khi thành lục tổ thì Ngài rất trẻ chỉ 
				ngoài hai mươi tuổi, không biết chữ nghĩa, chưa bao giờ học kinh 
				điển và lại là cư sĩ. Nhưng khi nghe những câu trong kinh Kim 
				Cang thì trí tuệ bát nhã của Ngài bừng sáng mà ngộ được chân lý 
				trong khi cả ngàn đệ tử của Ngài Hoàng Nhẫn thì ngồi thiền, tụng 
				niệm không biết bao nhiêu biến và không biết bao nhiêu năm mà có 
				ai ngộ được đâu. Thế thì trong tiền kiếp chính Huệ Năng đã trì 
				công tu hành đến chỗ ngộ hay sắp ngộ nên qua đến kiếp nầy chỉ 
				cần có thiện duyên thì Ngài giác ngộ ngay. Cũng nên nói thêm, 
				trên con đường tái sinh, thức tâm luôn cho nó là một Bản Ngã, là 
				một chủ thể cao thượng hơn tất cả những sự vật khác trong thế 
				gian vũ trụ này. 
				 
				Khi đến nước được tặng, mở bình ra thì nước đó hư không cũng 
				chẳng thêm ra, còn nước đem tặng cũng vậy, hư không cũng chẳng 
				thiếu chẳng thừa. Khi mê thì chấp có ta, có Bản Ngã nên mới tạo 
				nghiệp để phải chịu sinh tử triền miên. Nhưng khi thức tĩnh giác 
				ngộ, thức tâm vọng niệm biến mất, Bản Ngã không còn thì chơn 
				tâm, Phật tánh hiện bày. Con người nghĩ rằng trong họ phải có 
				cái ta nên trong tâm thức lúc nào cũng cho rằng cái ta này phải 
				khác với mọi sự vật và cho đến chết họ cũng bo bo giữ chặt cái 
				ta đến cùng để chuyển từ thân này sang thân khác. Nhưng tâm thức 
				thì cùng khắp mười phương thế giới, không hề đi đâu. Còn cái ta 
				chỉ là ảo danh, không hề thật có mà con người bám vào kiến chấp 
				mê lầm nên mãi trôi nổi trong sinh tử luân hồi. Hãy nghe câu 
				chuyện trong kinh Tỳ kheo Na Tiên như sau : 
				 
				Vua Di Lan Đà bây giờ hỏi Tỳ kheo Na Tiên rằng : 
				 
				- Bạch Đại đức! Con người sau khi chết rồi, cái gì sanh trở lại? 
				 
				Tỳ kheo Na Tiên liền đáp : 
				 
				- Tâu Đại vương! Đó là Danh (thọ, 
				tưởng, hành, thức) và Sắc 
				(thân tức là đất, nước, gió, lửa…). 
				 
				- Phải chăng đó là Danh và Sắc-thân của người cũ sanh trở lại? 
				 
				- Thưa không phải Danh cũ, cũng không phải Sắc-thân cũ sanh trở 
				lại. Cái Danh Sắc-thân của đời này làm các việc thiện ác, do 
				nghiệp thiện ác ấy mà chuyển sanh sang một Danh Sắc-thân khác để 
				thọ lãnh phước báo hay tội báo đã gây ra. 
				 
				- Như vậy là không phải cái Danh Sắc-thân cũ sanh trở lại. Thế 
				thì đời này là điều ác, đời sau đâu có chịu quả báo được? Và nếu 
				không sanh trở lại nữa thì tức là đã thoát khỏi luân hồi? 
				 
				- Không phải như vậy! Nếu sống ở đời mà chỉ toàn làm điều thiện 
				thì sau khi chết có thể không sanh trở lại. Nhưng thông thường 
				thì làm điều thiện cũng có mà gây điều ác cũng nhiều, việc lành, 
				việc dữ tiếp nối xen nhau không ngừng, cho nên phải sanh trở lại 
				mà thọ báo. Làm sao thoát khỏi luân hồi được. 
				 
				- Xin cho thí dụ về sự liên hệ giữa Danh Sắc-thân cũ với Danh 
				Sắc-thân mới : 
				 
				- Ví như người hái trộm xoài của kẻ khác. Chủ vườn xoài bắt được 
				quả tang đem đến đầu cáo với Đại vương, yêu cầu Đại vương xử 
				trị. Trước mặt Đại vương bị cáo cãi rằng : “Tôi không hái xoài 
				của anh ấy. Cây xoài của anh ấy trồng hồi trước là cây mầm tí 
				xíu. Còn những trái xoài mà tôi hái bây giờ nằm trên một cành 
				cây to lớn sum sê. Thế thì tôi đâu có ăn trộm”. Trước những lý 
				lẽ viện ra như thế, Đại vương có cho rằng anh ta vô tội và xử 
				cho anh ta được thắng kiện không? 
				 
				- Không! Vua Di Lan Đà đáp. Anh ta có tội. Trẩm sẽ xử cho người 
				trồng xoài được thắng kiện. Vì trước kia nhờ người này ra công 
				trồng trọt bón xới cây mầm, cho nên ngày nay mới có cây xoài to 
				lớn đơm hoa kết trái. 
				 
				- Tâu Đại vương! Con người tái sanh trở lại cũng giống như thế. 
				Với cái Danh Sắc-thân này, người ta sống trên đời mà làm các 
				việc thiện ác. Nghiệp thiện ác nối tiếp không ngừng, chuyển biến 
				hình thành để sanh ra một Danh Sắc-thân mới. Cũng như do công 
				phu đào lỗ bỏ hột và vun bón cây mầm nên về sau mới có cây xoài 
				sum sê cành lá với trái chín trĩu cây. Làm việc thiện ác trong 
				đời này tức là gieo hột giống xuống đất và bón xới cây mầm. Đời 
				sau không sao không thọ báo được. 
				 
				Vua lại hỏi : 
				 
				- Bạch Đại đức! trong con người cái gì làm chủ? Phải chăng đó là 
				linh hồn thường tại? 
				 
				- Tâu Đại vương! Cái linh hồn thường tại ấy như thế nào? 
				 
				- Nó thường ở trong ta, dùng mắt mà nhìn hình sắc, dùng tai mà 
				nghe âm thanh, dùng mũi mà ngửi mùi, dùng lưỡi mà nếm vị, dùng 
				thân mà sờ mó nhám trơn, dùng ý mà hiểu biết và nhớ nghĩ. Nó 
				cũng như Đại đức và trẩm hiện đang ở trong cung điện này nhưng 
				vì bốn mặt đều có cửa sổ, nên ngang qua cửa sổ ấy chúng ta mới 
				thấy được phong cảnh bên ngoài. 
				 
				- Như vậy, ý Đại vương là muốn ví các giác quan nơi con người 
				với các cửa sổ của cung điện này chăng? Ngang qua bất cứ cửa sổ 
				nào, ta cũng thấy được cảnh vật bên ngoài. Thế thì ngang qua bất 
				cứ giác quan nào, linh hồn thường tại cũng phãi thấy được ngoại 
				cảnh giống như thế chứ gì? Vậy linh hồn thường tại có thấy được 
				hình sắc bằng tai, mũi, lưỡi, thân và ý chăng? 
				 
				- Thưa không. 
				 
				- Linh hồn thường tại có nghe được âm thanh, có ngửi được mùi, 
				có sờ biết nhám trơn, có suy nghĩ  bằng mắt, mũi, lưỡi, 
				thân và ý chăng? 
				 
				- Thưa không. 
				 
				- Như vậy thì lời lẽ của Đại vương trước sau không xứng hợp với 
				nhau. Lại nữa, trong khi Đại vương và bần tăng cùng ngồi trong 
				cung điện này, nếu phá bỏ hết tất cả các cửa sổ ở bốn phía thì 
				tầm mắt của chúng ta rộng xa thêm ra không? 
				 
				- Thưa có. 
				 
				- Vậy, phá bỏ một cái cửa nơi thân ta là cặp mắt chẳng hạn thì 
				linh hồn thường tại có thấy rộng xa thêm không? 
				 
				- Thưa không. 
				 
				- Và nếu phá bỏ thêm mấy cái cửa khác nơi thân ta là tai, mũi. 
				Lưỡi, thân, ý thì linh hồn thường tại có nhờ đó mà nghe rộng 
				thêm, ngửi nhiều thêm, nếm tăng lên, sờ nhiều ra và suy nghĩ 
				rộng hơn không? 
				 
				- Thưa không. 
				 
				- Như vậy lời lẽ của Đại vương trước sau lại không xứng hợp 
				nhau. 
				 
				Na Tiên bèn giải thích rằng : 
				 
				- Con mắt và hình sắc gặp nhau khiến tâm thần kích động. Tâm 
				thần kích động thì liền sanh cảm thọ khổ vui. Với lỗ tai và âm 
				thanh, hoặc với mũi và hương, lưỡi và vị, thân và nhám trơn, ý 
				và điều nhớ nghĩ cũng như thế. Tâm thần kích động thì liền sanh 
				cảm thọ khổ vui. Do cảm thọ khổ vui liền sanh ý niệm. Do ý niệm 
				biến chuyển thành tựu cho nhau mà tạo nên một ông chủ vô thường 
				là cái giả Ngã. Cái gọi là linh hồn thường tại đâu có dính dáng 
				gì ở đây. 
				 
				Dựa vào câu chuyện trên thì một người hiện tại đang sống tức là 
				hiện giờ họ đang có đủ sắc, thọ, tưởng, hành, thức. Con người vì 
				bị vô minh che lấp, lấy giả làm chơn nên nghĩ rằng trong họ phải 
				có một cái Ngã thường hằng bất biến mà họ gọi là linh hồn để làm 
				chủ lấy đời họ và khi chết cái linh hồn này sẽ chuyển sang thân 
				khác ở đời sau. Vậy hãy nghiệm xem thật sự con người có cái linh 
				hồn thường hằng bất biến chăng? Con người là sự kết hợp của ngũ 
				uẩn tức là sắc, thọ, tưởng, hành, thức nghĩa là con người là do 
				nhân duyên hòa hợp tạo thành, chớ tự chúng không thể có được vì 
				thế, ngũ uẩn không có tự tánh, chủ thể nên nó là vô ngã tức là 
				Không. Cái biết phân biệt của lục thức khi lục căn duyên với lục 
				trần chỉ là những ý niệm thay đổi không ngừng trong tâm thức của 
				con người trong khi đó linh hồn thì cố định đâu có thay đổi. Con 
				người vừa mới kết tinh rồi sinh ra thì đã có sẳn một cái linh 
				hồn. 
				Đến khi lớn lên và cho đến 
				lúc chết thì cái linh hồn này vẫn như thế, không tăng không 
				giảm, cố định. Nhưng thật ra một người càng hiểu biết chuyện đời 
				thì tâm thức càng nới rộng chớ đâu có cố định. Một ông bác sĩ, 
				một vị kỹ sư, một nhà bác học thì chắc chắn sự hiểu biết của họ 
				hiện giờ khác rất xa với lúc họ chưa thành đạt. Thêm nữa, cũng 
				chính cái ngũ uẩn này tạo tác thiện ác, tốt xấu cũng bởi do Mạt 
				na thức. Bởi vì Mạt na thức có tính hằng thẩm tư lương nên luôn 
				chấp đó là mình, là của mình mà sinh ra tham đắm si mê. Vì còn 
				phân biệt đối đãi nên thấy có ta có người và dĩ nhiên là thấy 
				cái ta và cái của ta là đúng, là đẹp, là hơn. Đây là những căn 
				bản của phiền não khổ đau cũng bởi do chấp ngã mà ra. Vì thế mới 
				gọi là Ngã Si, Ngã Kiến, Ngã Mạn và Ngã Ái. Sau cùng tất cả 
				những chủng tử thiện ác được cất giữ trong A lại da thức để 
				chuyển sang đời sau. Nhưng tiến trình này như thế nào? 
				 
				Con người vì sống trong vô minh phiền não nên tạo ra nghiệp mà 
				phải kết nối đời sau để thọ khổ. Chữ “kiết sanh” có nghĩa là thọ 
				sanh tức là bắt đầu từ khi kết thai cho đến lúc sanh ra vậy. 
				Tiến trình kết nối đời sau bắt đầu từ thân đang sống đến thân 
				đang chết. Rồi từ thân đang chết đến thân trung ấm (thân mới 
				chết chưa đầu thai). Và sau cùng từ thân trung ấm đến thân đời 
				sau. Nếu các thân được tương tục không gián đoạn như thế ắt phải 
				có một cái gì thường lưu hành và giữ gìn (chấp thủ). Cái thường 
				lưu hành và giữ gìn đó chính là thức thứ tám, là A lại da thức 
				hay là A-đà-na thức. Thật vậy, nếu không có thức thứ tám này để 
				nắm giữ việc “kết nối đời sau” thì khi một người chết rồi phải 
				mất luôn, không còn tái sanh được nữa. 
				Do đó Phật giáo phủ nhận 
				cái linh hồn thường hằng bất biến trong con người, bởi vì linh 
				hồn thì không thay đổi nhưng con người mỗi giây mỗi phút luôn 
				thay đổi theo thời gian và không gian. Tất cả những chủng tử 
				thiện ác mà con người kết tập sẽ được cất giữ trong A lại da 
				thức (A đà na thức) và sẽ chuyển qua thân khác khi nhân duyên 
				hội đủ. Nên nhớ rằng thân xác là do kết hợp của thất đại (địa 
				đại, thủy đại, phong đại, hỏa đại, kiến đại, không đại và thức 
				đại) vì thế khi con người chết, thất đại tan rã thì đất trở lại 
				với đất, nước trở về với nước, lửa trở lại với lửa… A lại da 
				thức (A đà na thức) sẽ trở về với không đại trong không gian vô 
				cùng vô tận này. A đà na thức hiện hữu trong hư không (không 
				đại) không có nghĩa là nó không có. Nó lúc nào cũng có nhưng mắt 
				thường không thấy được nên nhà Phật mới gọi nó là không. Ví cũng 
				như gió, có ai thấy được gió đâu, nhưng gió lúc nào cũng có 
				trong không gian địa cầu này. Không khí cũng thế, chỗ nào mà 
				không có không khí, nhưng không khí không có mùi vị, hình sắc 
				nên ngũ quan con người không nhận biết được. Một thí dụ khác là 
				khí đốt. Khí đốt thì không có mùi vị, màu sắc mà lại rất độc cho 
				nên khi dùng công tu hơi đốt mới cộng thêm mùi thúi vào để dễ 
				nhận biết. 
				Vì vậy khi hội đủ nhân 
				duyên thì những chủng tử trong A đà na thức duyên khởi mà tác 
				tạo ra con người mới tức là có tái sinh. Một người mới chết, tuy 
				thất đại từ từ tan rã, tay chân lạnh ngắt, tim ngừng đập, nhưng 
				Tàng thức (A đà na thức) hay (A lại da thức) vẫn còn lưu lại 
				trong thân xác người chết. Dựa theo Phật giáo thì khoảng 8 tiếng 
				đồng hồ sau khi tim ngừng đập thì Tàng thức mới thoát ra khỏi 
				thân xác. Tất cả hơi nóng trong người (hỏa đại) đi theo Tàng 
				thức ra ngoài nên toàn thân người chết lúc đó mới thật sự lạnh 
				ngắt. Khi con người mới thụ tinh thì nghiệp lực khiến Tàng thức 
				nhập vào Noãn bào của người mẹ trước khi thất đại được thành 
				hình. Nhưng đến lúc lâm chung, tất cả thất đại tan rã trước rồi 
				Tàng thức mới thoát ra sau. 
				 
				Vậy có ai chết rồi mà không sanh trở lại không? Nếu chúng sinh 
				còn nặng nợ tham dục ái ân, kẻ đó còn sanh trở lại đời sau. Còn 
				những ai đã thoát khỏi vòng tham đắm dục tình thì người đó sẽ 
				không còn tái sanh trở lại. Nói cách khác còn tạo nghiệp là còn 
				sinh tử, hết tạo nghiệp là  thoát ly sinh tử, chứng nhập 
				Niết bàn. 
				
				
				 |  
				 |