|   Tuy thế giới hiện tượng 
				có muôn hình vạn tướng, lớn nhỏ, rộng hẹp, cao thấp… mà ngôn ngữ 
				con người đôi khi cũng khó mà diễn đạt cho đầy đủ, nhưng tất cả 
				cũng bắt đầu từ nội căn và ngoại trần. Nội căn thì có mắt, tai, 
				mủi, lưỡi, thân và ý và ngoại trần thì có sắc, thanh, hương, vị, 
				xúc, pháp. Vì sáu căn tiếp xúc với sáu trần mới phát sinh ra sáu 
				thức cho nên sáu căn và sáu trần chính là sinh xứ của sáu thức 
				và của các tâm niệm. Do đó sáu căn, sáu trần chính là mười hai 
				xứ. 
				Trong phần này, Đức Phật 
				muốn thu 12 xứ là mắt, tai, mủi, lưỡi, thân và ý cùng sắc, 
				thanh, hương, vị, xúc, pháp để khai thị cho chúng sinh thấy biết 
				rằng 12 xứ đều là bản tánh nhiệm mầu phát xuất từ trong Như Lai 
				Tạng của tất cả mọi người. Thông thường khi nói về sáu căn thì 
				kinh thường ám chỉ phù trần căn có nghĩa là sáu căn thịt của con 
				người. Thí dụ như mắt thịt, lỗ tai thịt… 
				Đôi khi trong kinh điển 
				Phật giáo cũng đề cập đến một loại sáu căn khác. Đó là tịnh sắc 
				căn nghĩa là những căn này không phải là do xác thịt mà do bốn 
				đại vi tế tạo thành. Vì là đại vi tế nên không thể nhìn thấy 
				được, nhưng nó vẫn có tác dụng rõ ràng như luồng điện. Nếu nói 
				theo danh từ khoa học ngày nay thì đại vi tế này chính là những 
				luồng thần kinh theo thần kinh hệ đi vào các căn. Tịnh sắc căn 
				cũng còn gọi là “Thắng nghĩa căn” là cơ quan có công năng phát 
				sinh nhận thức, làm chỗ nương tựa cho thức. 
				 
				1) Thu Hai Xứ Sắc Trần Và Nhãn căn. 
				 
				A Nan! Vì sao 12 xứ là hiện tượng biểu hiện từ Như Lai Tạng? 
				 
				A Nan! Ông hãy xem rừng cây Kỳ Đà và các suối ao khe cây cảnh 
				đó, ý ông nghĩ thế nào? Như thế là sắc trần sinh ra tánh thấy, 
				hay tánh thấy sinh ra sắc tướng? 
				 
				A Nan! Nếu tánh thấy sanh ra sắc tướng thì lúc trông thấy hư 
				không, không có sắc tướng lẽ ra tánh thấy sinh ra sắc tướng đã 
				tiêu mất rồi. Mà đã tiêu mất thì tỏ ra tất cả đều không, sắc 
				tướng đã không thì lấy gì để biết được hư không và sắc tướng? 
				Đối với hư không thì cũng như vậy. 
				 
				Lại nếu sắc trần sinh ra tánh thấy thì khi thấy hư không, không 
				có sắc, tánh thấy liền tiêu mất đi, tiêu mất thì tất cả đều 
				không, lấy gì biết được hư không và sắc tướng? 
				 
				Vậy nên biết rằng tánh thấy cùng sắc, không đều không có xứ sở, 
				tức sắc trần và tánh thấy, hai cái đó đều luống dối, vốn không 
				phải tánh nhân duyên cũng không phải tánh tự nhiên. 
				Khi Đức Phật bảo ông A Nan nhìn vào rừng cây Kỳ Đà và những suối 
				ao trong đó, ông A Nan liền thấy những cảnh vật như thế. Vậy 
				những cảnh vật trong rừng Kỳ Đà tạo ra tánh thấy cho ông A Nan 
				hay là tánh thấy phát sinh ra rừng Kỳ Đà? 
				 
				a) Nếu cho rằng tánh thấy của ông A Nan tạo ra cảnh giới của 
				rừng Kỳ Đà thì khi mắt trông vào hư không (không có sắc tướng : 
				hình ảnh, màu sắc…) thì tánh thấy mất đi đâu còn nữa. Nhưng nếu 
				mất đi tánh thấy thì làm sao ông A Nan biết được đó là hư không. 
				Do đó, tuy mắt có nhìn vào hư không hay vào sắc tướng thì tánh 
				thấy trước sau như một, không thay đổi. 
				 
				b) Bây giờ nếu cho rằng sắc trần sinh ra tánh thấy nghĩa là nhờ 
				có rừng Kỳ Đà mà tánh thấy của ông A Nan mới phát hiện. Vậy thì 
				khi ông A Nan nhìn vào hư không tức là không có sắc trần thì 
				chắc chắn tánh thấy của ông A Nan biến mất. Nhưng nếu A Nan 
				không có tánh thấy để thấy hư không thì làm sao biết được đó là 
				hư không? Vậy tánh thấy đâu có biến mất, nó lúc nào cũng thường 
				hằng với tất cả mọi chúng sinh cho dù con người có dùng con mắt 
				để thấy hay không. 
				 
				Để đi đến kết luận, Đức Phật dạy rằng sáu căn tiếp xúc với sáu 
				trần để phát sinh ra sáu thức phân biệt tạo ra vọng tưởng phiền 
				não trong tâm của con người, nhưng thật chất sáu căn và sáu trần 
				hay trong trường hợp này “con mắt” và “sắc tướng” để sinh nhãn 
				thức chỉ đối đãi với nhau mà phát hiện đều là những tướng giả 
				dối, không chân thật bởi vì con mắt và sắc tướng tự nó không thể 
				sanh ra nhãn thức mà phải cần có sự duyên khởi tạo thành. Mà một 
				khi có sự duyên khởi nghĩa là không có tự thể tức là tướng sinh 
				diệt. 
				 
				Theo sự giải thích của khoa học về sự thấy là con mắt phải có sự 
				chiếu và phản chiếu của ánh sáng thì mới thấy được sắc tướng. 
				Thí dụ như trong căn phòng tối đen, tuy có đặt một cái bàn, 
				nhưng nếu không có ánh sáng thì không thấy cái bàn. Khi đốt đèn 
				lên thì ánh sáng bây giờ loan tỏa khắp căn phòng nghĩa là ánh 
				sáng chiếu vào cái bàn và phản chiếu ngược vào mắt làm cho hệ 
				thần kinh cảm biết đó là cái bàn. 
				Vậy thì cái bàn (sắc tướng) 
				hay con mắt (nhãn căn) tự nó không thể thấy, tức là không có tự 
				thể mà phải cần duyên khởi nghĩa là cái này tác động với cái kia 
				thì cái thấy mới xuất hiện. Xét như vậy thì con mắt, sắc tướng, 
				hư không là pháp giới duyên khởi, không có tự tánh vốn không 
				phải tánh nhân duyên và cũng không phải tánh tự nhiên. Bởi vì 
				nếu tánh tự nhiên thì đâu cần con mắt mà tự nhiên vẫn thấy, 
				nhưng thật ra nếu không có mắt, sắc trần và tánh thấy thì không 
				bao giờ thấy được. 
				 
				Đoạn kinh nầy Đức Phật muốn chúng sinh thấu hiểu rằng tuy 
				mắt duyên với sắc trần để tạo ra nhãn thức, nhưng cái nhãn thức 
				này cũng là giả dối không thật vì cái thấy là cái thấy của 
				huyển, chớ không phải cái thấy chân thật. Muốn có sự thấy biết 
				chân thật thì con người phải lìa căn và sắc trần thì tánh thấy 
				thường hằng thanh tịnh mới hiển hiện được. 
				 
				Ý Phật muốn dạy chúng sinh trong phần này là những hình ảnh, màu 
				sắc mà con mắt của chúng ta thâu nhận đều là giả dối không thật. 
				Nếu con người tin chắc tất cả những hình tướng trong thế giới 
				hiện tượng là thật thì lòng tham đắm si mê sẽ phát khởi để tạo 
				tác, giữ gìn. Vì thế mà phiền não khổ đau không bao giờ chấm dứt 
				được. Ngược lại nếu chúng sinh nghe lời Phật dạy để thấy biết 
				rằng tuy có thấy nhà cửa, xe cộ, tiền bạc… nhưng tất cả đều 
				không bền không chắc, nay có mai không vì cái thấy này không 
				chân thật, do duyên khởi tạo thành nên dễ kềm chế lòng tham mà 
				có tâm thanh tịnh. Đây chính là thấy mà như không thấy gì hết. 
				Vì thế Phật mới dạy rằng: “Phàm sở hữu tướng, giai thị hư vọng. 
				Nhược kiến chư tướng, Phi tướng tức kiến Như Lai” nghĩa là bất 
				cứ vật gì mà có hình sắc là giả dối, hư hoại, không thật. Chỉ 
				khi nào chúng sinh thấy được thật tướng vô tướng thì thấy được 
				Chân lý, Chơn tâm. 
				 
				2) Thu Hai Xứ Thanh Trần Và Nhĩ căn (Thanh trần và Tánh 
				nghe) 
				 
				A Nan! Ông lại nghe trong trai đường ở rừng Kỳ Đà này, khi 
				dọn đồ ăn xong thì đánh trống, lúc họp chúng lại thì đánh 
				chuông; tiếng chuông, tiếng trống trước sau nối nhau. A Nan! Ý 
				ông nghĩ thế nào? Tiếng đến chỗ nghe hay tánh nghe đến chỗ 
				tiếng? 
				 
				A Nan! Nếu tiếng đến chỗ tánh nghe, vậy khi tiếng đến chỗ ông A 
				Nan, khiến cho ông A Nan được nghe thì ông Mục Kiền Liên, ông 
				Đại Ca Diếp… lẽ ra không thể đồng nghe cùng một lúc. Ví như khi 
				tôi khất thực ở thành Thất La Phiệt thì ở rừng Kỳ Đà này có cả 
				1250 vị sa môn, khi nghe tiếng chuông, đồng đến thọ trai một 
				lượt. Nếu như tánh nghe của ông đến bên tiếng thì lúc ông nghe 
				tiếng trống, cái nghe của ông đã đến nơi tiếng trống rồi thì khi 
				tiếng chuông cũng phát ra, lẽ ra ông không thể nghe cả hai bên. 
				Cũng như khi tôi đã về rừng Kỳ Đà thì không thể có mặt ở thành 
				Thất La Phiệt nữa. Sự thật, không những ông không nghe tiếng 
				trống tiếng chuông mà ông còn nghe được cả tiếng voi, ngựa, 
				trâu, dê và nhiều tiếng khác cùng một lúc. Còn nếu trống và tánh 
				nghe không đến nhau thì không có gì để gọi là nghe cả. Vậy nên 
				biết rằng tánh nghe và cái tiếng cả hai đều là hư vọng vốn không 
				phải tánh nhân duyên cũng không phải tánh tự nhiên. 
				 
				Âm thanh được kết tạo bởi những âm hưởng có rất nhiều tần số 
				(frequency) khác nhau di động trong không gian làm rung động cái 
				màng nhĩ. Hằng ngày chúng ta mở những băng tần AM hay FM để nghe 
				nhạc, tin tức hay thể thao vì mỗi băng tần phát ra với một tần 
				số đặc biệt không xen lẫn với những tần số khác. Vận tốc của âm 
				thanh thì chậm hơn vận tốc của ánh sáng, do đó, khi có sấm chớp 
				thì thấy ánh sáng trước khi nghe tiếng sấm nổ mặc dù hai hiện 
				tượng này xảy ra cùng một lúc. 
				 
				Trong trai đường của rừng Kỳ Đà, khi đại chúng dọn đồ ăn để thết 
				đãi chư Tăng Ni thì họ đánh trống và khi đồ ăn sẵn sàng thì họ 
				đánh chuông để mọi người cùng thọ thực. Do đó, tiếng trống tiếng 
				chuông tiếp nối nhau vang dội. Bây giờ Đức Phật mới hỏi ông A 
				Nan rằng : 
				 
				1) Nếu tiếng trống (thanh trần) đi đến nơi lỗ tai (nhĩ căn), thì 
				chỉ có một tiếng trống cho nên nếu một người nghe được tiếng 
				trống này thì người khác không thể nghe được. Nhưng trên thực tế 
				thì tất cả đại chúng đều nghe được tiếng trống một lượt chớ 
				không phải người này nghe xong mới đến người khác nghe. 
				 
				2) Nếu lỗ tai (nhĩ căn) tìm đến tiếng trống (thanh trần) thì vào 
				thời điểm này lỗ tai (nhĩ căn) không thể nào đi đến tiếng chuông 
				được vì chỉ có một lỗ tai. Nhưng trên thực tế chẳng những lỗ tai 
				vừa nghe cả tiếng trống mà còn nghe tất cả những âm thanh khác 
				như tiếng chuông, tiếng ngựa hí, tiếng trâu gặm cỏ, tiếng dê kêu 
				be he… 
				 
				3) Nếu tiếng trống và âm thanh không hòa điệu tức là lá nhĩ 
				không tiếp nhận được những rung động của âm thanh thì dĩ nhiên 
				là không thể nghe gì hết. 
				 
				Bây giờ Phật mới kết luận rằng âm thanh mà lỗ tai tiếp nhận 
				được, tự nó không có tự thể mà là do duyên khởi tạo thành nghĩa 
				là âm thanh tự nó không biết được mà cần phải có lá nhĩ để tiếp 
				nhận. Vì thế âm thanh là giả dối, là biến đổi. Cũng như trong 
				không gian có biết bao tần số của radio, của điện thoại, của TV, 
				nhưng chúng ta đâu có biết sự hiện hữu của nó. Do đó, từ đây mỗi 
				khi nói điện thoại, xem TV hay nghe radio thì chúng ta biết rằng 
				tất cả đều là duyên khởi mà thành nên chúng không có tánh nhân 
				duyên và cũng không có tánh tự nhiên. 
				 
				Trong cuộc sống, âm thanh đóng một vai trò rất quan trọng. Con 
				người vì chạy theo tiếng thị phi nên ham chuộng lời khen, tiếng 
				tốt. Ngược lại, nếu bị chỉ trích thì đâm ra buồn phiền đau khổ. 
				Đoạn kinh này nhắc nhở chúng sinh thấu hiểu rằng lời nói âm 
				thanh là giả dối, không thật vì chúng là do sự tạo tác từ bên 
				ngoài. Nên nhớ rằng trên thế gian này, không có ai hiểu ta bằng 
				chính ta. Khi ta làm một việc thiện, ta biết. Khi ta nói lời bất 
				thiện, chính ta cũng biết. Cái biết chân thật, đứng đắn, khách 
				quan, không thiên vị có sẵn trong tất cả mọi chúng sinh tức là 
				tánh biết, là hình bóng của chơn tâm, Phật tánh của mọi người. 
				Nếu hằng ngày chúng sinh 
				nghe theo tiếng nói của lòng mình, tiếng nói chân thật, đạo đức, 
				khách quan, tiếng nói của chơn tâm thì làm gì còn phiền não, làm 
				gì có khổ đau. Đây chính là hồi quang phản chiếu tức là xoay vào 
				bên trong để nghe tiếng nói thật của tâm thay vì tiếng nói giả 
				dối, nịnh bợ, ích kỷ, thiếu sáng suốt phát xuất từ lòng 
				tham-sân-si từ bên ngoài. Chính tánh nghe chân thật không bị ảnh 
				hưởng của ngoại trần giúp chúng sinh dần dần sống gần với chơn 
				tánh để có giải thoát giác ngộ, có an vui tự tại, có Niết bàn 
				trong trần thế này vậy.  
				 
				3) Thu Hai Xứ Hương Trần Và Tỷ căn. 
				 
				A Nan! Ông hãy ngửi hương chiên đàn trong lư này, hương này 
				nếu đốt một lạng thì cả thành Thất La Phiệt trong 40 dặm đều 
				ngửi được mùi thơm. Ý ông nghĩ thế nào? Mùi thơm ấy sinh ra, do 
				cây chiên đàn, do nơi lỗ mũi của ông hay do nơi hư không? Nếu do 
				lỗ mũi sinh ra thì nó từ lỗ mũi ra, nhưng lỗ mũi không phải 
				chiên đàn thì làm sao có được mùi thơm chiên đàn? Nếu từ hư 
				không sanh, thì tánh hư không thường còn, mùi thơm cũng phải 
				thường có, cần gì phải đốt cây khô chiên đàn trong lư rồi mới có 
				mùi hương. Nếu mùi thơm sinh ra từ cây chiên đàn, cần gì phải 
				đợi đốt thành khói mới có chất thơm lan tỏa trong thành? 
				 
				Vậy nên biết rằng hương trần và tánh ngửi đều không có xứ sở, cả 
				hai đều hư vọng, không phải tánh nhân duyên cũng không phải tánh 
				tự nhiên. 
				 
				Chủ đích của kinh Thủ Lăng Nghiêm là giúp chúng sinh lìa huyển, 
				lánh xa sự giả dối, sinh diệt mà thâm nhập vào tự tánh Như Lai 
				Tạng để chứng nhập Thủ Lăng Nghiêm tam muội. 
				 
				Trong đoạn kinh này, Đức Phật muốn thu lại Hương trần (mùi thơm, 
				thúi) ở bên ngoài mà lỗ mũi (Tỷ căn) tiếp nhận được để chứng 
				minh rằng Hương trần và Tỷ căn chỉ là những duyên huyển hóa, chớ 
				không có chi là sự thật cả. Vì sao? Bởi vì nếu chúng sinh còn 
				say đắm theo hương trần nghĩa là thích ngửi hoa thơm, thích xức 
				nước hoa quyến rũ, thích ngửi đồ ăn thơm ngon hoặc chán ghét mùi 
				hôi thúi, chê bai người tanh hôi dơ dáy… thì những người này sẽ 
				lụy về thế gian, chìm đắm theo thế gian, xa dần với tự tánh 
				thanh tịnh của chính mình và dĩ nhiên sinh tử luân hồi chắc phải 
				đeo mang. 
				 
				Trong thời Đức Phật, người Ấn Độ dùng bột của cây chiên đàn để 
				chế ra nhang hay trầm hương vì nó tỏa ra mùi thơm rất tinh 
				khiết. Đức Phật bảo ông A Nan hãy ngửi mùi thơm phát ra từ trong 
				lư hương. Thay vì đốt một cây, nếu Đức Phật đốt một lạng thì mùi 
				hương chẳng những lan tỏa khắp trong tịnh xá Kỳ Đà mà còn lan 
				rộng khắp cả thành Thất La Phiệt. 
				Bây giờ Đức Phật mới hỏi 
				ông A Nan rằng : 
				 
				1) Nếu mùi hương thơm sanh ra từ lỗ mũi thì nó phải từ lỗ mũi 
				ra, nhưng lỗ mũi không phải là chiên đàn thì làm sao có được mùi 
				thơm chiên đàn? 
				 
				2) Nếu mùi thơm từ hư không thì tánh của hư không thường còn, 
				không thay đổi nên lúc nào cũng thơm cần chi phải đốt chiên đàn 
				mới có mùi thơm? 
				 
				3) Còn nếu hương thơm từ cây chiên đàn thì tự nó đã thơm khắp 
				mọi nơi rồi chớ đâu cần phải đốt thì mọi người trong thành Thất 
				La Phiệt mới ngửi được mùi hương? 
				 
				Do vậy, Tỷ căn và Hương trần đều là duyên khởi, giả dối, không 
				tự tánh cho nên Đức Phật thu lại Tỷ căn và Hương trần để chúng 
				sinh quay về với tự tánh của mình vốn là bản tánh thanh tịnh. 
				Thân tứ đại của chúng sinh là huyển hóa, sinh sinh diệt diệt thì 
				những căn cũng thế, không bền không chắc vì thế con người đừng 
				tham đắm chạy theo căn, trần mà tạo nghiệp để phải chịu quả khổ 
				đời đời. Chạy theo tham đắm hương thơm là chạy theo phiền não. 
				Thí dụ nếu ngửi đồ ăn thấy thơm ngon thì lòng tham dấy khởi nên 
				muốn ăn cho nhiều, ngược lại nếu ngửi cơm hẩm cá thiu thì lòng 
				sân nổi dậy muốn đánh đổ nó đi mà tạo nghiệp. Bây giờ nếu quay 
				về sống đúng với tánh ngửi thì đồ ăn nào cũng được, không có 
				phân biệt đối đãi. Cơm thơm thì ăn nhiều, cơm thiu thì ăn ít, 
				không phiền não là có an lạc. 
				 
				4) Thu Hai Xứ Vị trần và Thiệt căn. 
				 
				A Nan! Thường thì ông trì bát khất thực ngày hai lần. Có khi 
				được tô, lạc, đề hồ, là những vị ngon. Ý ông nghĩ thế nào? Vị đó 
				sinh ra, do nơi hư không, do nơi cái lưỡi hay do nơi đồ ăn? 
				A Nan! Nếu vị ấy do nơi cái lưỡi của ông sanh, mà trong miệng 
				ông chỉ có một cái lưỡi làm sao biết được các vị: ngọt, chua, và 
				đắng? Nếu do đồ ăn sanh, đồ ăn thì vô tri giác làm sao biết được 
				vị? Nếu vị từ hư không sanh, vậy ông hãy nếm xem hư không có vị 
				gì? 
				 
				Vậy nên biết rằng các vị và cái lưỡi biết nếm đều không có xứ 
				sở, tức cái biết nếm cùng với các vị, cả hai đều là hư vọng, vốn 
				không phải tánh nhân duyên và cũng không phải tánh tự nhiên. 
				 
				Vị trần trong đoạn kinh này là những mùi vị như chua, cay, ngọt, 
				béo, đắng, chát… và được nhận biết bởi cái lưỡi (thiệt căn). Ở 
				đây Đức Phật muốn thu lại tất cả những mùi vị của đồ ăn, thức 
				uống và thu đi tướng lưỡi của mình để đưa bản tánh của tướng 
				lưỡi trở về với bản tánh thanh tịnh của Như Lai Tạng trước khi 
				nó bị các duyên ngoại trần làm cho say đắm. Tướng lưõi (thiệt 
				căn) tự nó là một bản tánh vô sinh thanh tịnh, nhưng do vọng 
				niệm mê lầm làm phát sinh vọng chấp. Để chứng minh điều này, Đức 
				Phật mới hỏi A Nan rằng: Hằng ngày ông A Nan đi khất thực, có 
				khi thọ nhận món chua, món mặn, món béo, món ngọt. Vậy thì những 
				mùi vị đó là do cái lưỡi sinh ra? do đồ ăn sinh ra? hoặc do hư 
				không sinh ra? 
				 
				1) Nếu các mùi vị trong thức ăn đó do cái lưỡi sinh ra thì khi 
				ông A Nan không ăn món nào thì cái lưỡi đâu có phát sinh ra mùi 
				chua hay ngọt? Hoặc là cái lưỡi thì chỉ có một thì đúng ra chỉ 
				sinh ra được một mùi vị chớ làm sao lại sinh ra vô số mùi vị như 
				thế? 
				 
				2) Nếu các mùi vị là do đồ ăn sinh ra, mà đồ ăn là vô tri vô 
				giác thì làm sao lại tự biết mình là ngọt hay đắng? Cũng như khi 
				ăn chanh thì có vị chua, ăn chè thì có vị ngọt, ăn cơm thì có vị 
				nhạt cho nên nếu các mùi vị là do đồ ăn sinh ra thì làm sao đồ 
				ăn lại tự biết thay đổi mùi vị của mình? 
				 
				3) Còn nếu các mùi vị là do hư không mà sinh thì hư không là 
				thường còn, không thay đổi cho nên nếu vị hư không là vị chua 
				thì cái lưỡi chỉ có một vị chua chớ đâu có được những vị khác? 
				Vậy vị trần và thiệt căn vốn là giả dối, không tự tánh và được 
				phát khởi do vọng niệm của bản tâm sinh ra. Do đó nếu bây giờ 
				chúng sinh thu vị trần và thiệt căn thì bản tánh vô sinh sẽ được 
				hiễn bày. 
				 
				Hằng ngày con người có làm việc đầu tắt mặt tối, có tranh dành 
				chiếm đoạt, có vui có buồn, có sướng có khổ cũng là cho miếng 
				ăn. Nói xa một chút thì con người có giết hại lẫn nhau cũng chỉ 
				vì miếng cơm manh áo. Nhưng “ăn để sống hay là sống để ăn?”. 
				Phàm nhân ăn thì chê ngon chê dở, chạy theo mùi vị thơm ngon để 
				tạo khổ cho mình và cho người. Ăn thì muốn mâm cao cỗ đầy vì thế 
				phiền não lúc nào cũng đeo mang. Ngày xưa các vua nhà Nguyễn 
				ngày thì ăn ba bữa và mỗi bữa phải có trên bốn mươi món do đó 
				làm vua mà đầu óc chỉ lo ăn uống thì làm sao dân giàu nước mạnh 
				được? Vì thế Đức Phật muốn chúng sinh thấu hiểu rằng cái lưỡi tự 
				nó không có tội lỗi xấu xa gì, ngay cả vật thực cũng bình đẳng 
				thanh tịnh vì cho dù đồ ăn có trăm ngàn món mà mục đích vẫn là 
				làm cho người được no, nhưng khi lưỡi tiếp xúc với vật thực thì 
				bây giờ vọng tưởng mới phát sinh. 
				Còn Tánh nếm thì mùi vị gì 
				nó cũng biết, nhưng nó không có sự phân biệt đối đãi để khen món 
				này hoặc chê món kia. Do đó nếu hằng ngày con người thay vì chạy 
				theo sự phân biệt đối đãi của cái lưỡi (thiệt thức) nghĩa là 
				chạy theo món ngon vật lạ mà chê bai món dở, khó ăn thì dĩ nhiên 
				phiền não đau khổ chắc chắn sẽ đeo mang. Ngược lại ăn để sống 
				thì món gì ăn cũng được và khi no bụng thì sẽ không còn dục vọng 
				để đòi hỏi phải có món này vật nọ nữa. Được như vậy thì có an 
				lạc, có Niết bàn. Ngày xưa khi Đức Phật và các đại đệ tử khi đi 
				khất thực, các Ngài trộn chung tất cả món ăn lại với nhau rồi 
				mới ăn để không còn phân biệt món này ngon, món kia dở vì thế 
				các Ngài mới có an lạc thanh tịnh Niết bàn là vậy bởi vì các 
				Ngài đang sống với tánh giác của mình. 
				 
				5) Thu Hai Xứ Xúc trần và Thân căn. 
				 
				A Nan! Ông thường lấy tay xoa đầu buổi sớm mai. Ông Nghĩ thế 
				nào? Trong sự nhận biết xoa đầu, lấy cái gì làm biết cảm xúc? 
				Cái biết ở nơi tay hay ở nơi đầu? Nếu nó ở nơi tay, mà cái đầu 
				không biết thì làm sao thành cái cảm xúc ấy. Còn nếu ở nơi đầu, 
				mà cái tay vô dụng thì làm sao gọi là cảm xúc được. Nếu cả cái 
				đầu và cái tay, mỗi cái đều có biết thì một mình ông A Nan mà có 
				hai cái biết cảm xúc. Thế thì trong ông cũng có hai con người? 
				Vả lại, nếu đầu và tay đồng một cảm xúc, thế thì cả hai cùng một 
				tự thể. Nếu một tự thể thì không sở, không năng, cái nghĩa cãm 
				xúc không thành lập được. Nếu là hai thể thì cảm xúc ở phía nào? 
				Ở bên năng thì không ở bên sở. Ở bên sở không có bên năng. Không 
				lẽ hư không tạo thành cảm xúc cho ông? 
				 
				Vậy nên biết rằng cảm xúc và thân căn đều không có xứ sở, cảm 
				xúc biết cùng xúc trần đều là hư vọng, vốn không phải tánh nhân 
				duyên cũng không phải tánh tự nhiên. 
				 
				Thân căn là chỉ cho thân tứ đại cho nên khi vào mùa hè oi bức 
				thì thân cảm thấy nóng, mùa đông thì thân cảm thấy lạnh. Bị đánh 
				thì thân cảm thấy đau, được xoa bóp thì thân cảm thấy êm dịu. 
				Khi đưa tay rờ vào miếng lụa thì cảm thấy êm đềm, hoặc bị gai 
				đâm thì cảm thấy đau đớn. Đây là những cảm xúc của thân căn khi 
				tiếp xúc với xúc trần. 
				 
				Khi xuất gia, đầu cạo nên mỗi buổi sáng ông A Nan thường lấy tay 
				xoa đầu, lau sạch bụi bặm vì thế mà Đức Phật mới lấy đây làm thí 
				dụ để hỏi ông A Nan rằng khi tay xoa vào đầu thì lấy cái gì làm 
				biết cảm xúc? 
				 
				1) Nếu như cái biết cảm xúc ở nơi tay thì lẽ ra cái đầu không 
				biết được có cái tay xoa nó. Ngược lại, nếu cái biết cảm xúc ở 
				nơi đầu thì cái tay lẽ ra không biết được nó đã xoa cái đầu? 
				 
				2) Nếu cả hai tay và đầu đều biết thì lẽ đâu một người mà lại có 
				hai thân căn, hay một người mà lại có hai tâm? Thế thì thân căn 
				nào là thật của mình? Còn nếu cho rằng cả đầu và tay đều chỉ có 
				một thân căn thì đầu và tay như nhau, không khác. Thế thì căn 
				đối với căn chớ không còn căn đối với trần nữa thì làm sao cảm 
				xúc phát sinh được? 
				 
				Bây giờ Đức Phật mới kết luận rằng tất cả những cảm xúc thọ nơi 
				thân thật ra không có xứ sở. Đây chỉ là những tướng đối đãi do 
				vọng niệm phát khởi. Mặc dù nó là vọng niệm phát khởi, nhưng nó 
				vốn là tánh chân như nhiệm mầu của Như Lai Tạng (Bất biến tùy 
				duyên). Nói cách khác tuy cảm giác ở tay hay đầu là do vọng niệm 
				hư ảo mà có, nhưng những cảm giác hư vọng này cũng từ bản giác 
				thanh tịnh (Như Lai Tạng) mà tạo tác. Vì thế nếu chúng sinh biết 
				lìa những vọng niệm sinh diệt, hư ảo thì chính họ tức thì sẽ trở 
				lại với tự tánh Bồ-Đề thanh tịnh ngay. 
				 
				6) Thu Hai Xứ Pháp trần và Ý căn. 
				 
				A Nan! Ông thường trong ý duyên với ba tánh: thiện, ác và vô 
				ký mà sinh ra pháp trần. Pháp trần đó tức tâm sanh hay ly tâm 
				sanh? 
				 
				A Nan! Nếu do tâm sanh pháp trần thì pháp trần không còn là trần 
				nữa. Vì nó không phải là pháp sở duyên của tự tâm, làm sao thành 
				một xứ được? 
				 
				Nếu bảo rằng rời cái tâm, riêng có chỗ khác thì bản tánh của 
				pháp trần là có biết hay không có biết? Nếu có biết, thì gọi là 
				tâm, nhưng nếu nó khác với ông và không phải trần cảnh thì cũng 
				như cái tâm của người khác. Còn nếu nó tức là ông và cũng tức là 
				tâm thì làm sao cái tâm nơi ông lại thành hai được? Lại nếu như 
				không có biết, cái pháp trần đó đã không phải sắc, thanh, hương, 
				vị, ly, hợp, lạnh, nóng và tướng hư không. Vậy thì pháp trần ở 
				chỗ nào? Hiện nay nơi sắc, không, không thể chỉ nó ra được; 
				không lẽ trong nhân gian lại có cái ngoài hư không? Nếu không có 
				đối tượng sở duyên thì ý căn do đâu thành lập xứ? Vì vậy nên 
				biết rằng pháp trần cùng ý căn đều không có xứ sở, cả hai đều hư 
				vọng, vốn không phải tánh nhân duyên cũng không phải tánh tự 
				nhiên. 
				 
				Con người thường suy nghĩ về tất cả những việc thiện, ác trong 
				thế gian này. Thấy người nghèo khổ, hoạn nạn nên muốn giúp đỡ 
				thì lúc đó đang nghĩ thiện. Nhưng nếu để tâm muốn hại người thì 
				đang nghĩ ác. Thấy người ăn xin sẵn trong túi có vài đồng nên 
				lấy ra cho mà chẳng quan tâm để ý là nghĩ vô ký. Do đó tất cả 
				những suy nghĩ trong thế gian, thiện có, ác có, không thiện 
				không ác cũng có thì gọi là pháp trần. Vậy pháp trần là do tâm 
				sinh ra hay là không do tâm sinh ra? Trước khi trả lời, Đức Phật 
				đặt câu hỏi với ông A Nan rằng : 
				 
				1) Nếu pháp trần là do tâm sinh ra thì rõ ràng pháp trần chính 
				là tâm. Mà đã là tâm thì pháp trần thuộc về năng tức là bên 
				trong chớ không thuộc về sở tức bên ngoài. Nhưng nếu là năng thì 
				làm sao gọi là pháp trần cho được bởi vì trần cảnh thì phải ở 
				bên ngoài? 
				 
				2) Nếu pháp trần không do tâm sinh ra và có phần riêng biệt thì 
				bây giờ bản tính của pháp trần là có biết hay không có biết? 
				 
				- Nếu pháp trần có biết thì pháp trần tức là tâm chứ không phải 
				trần cảnh. Tuy là tâm, nhưng pháp trần không thuộc A Nan thì cái 
				tâm này là của người khác rồi? Còn nếu pháp trần là tâm và là 
				của A Nan thì làm sao cái tâm của A Nan lại biến thành hai được? 
				 
				- Còn nếu pháp trần không có biết, ngoài năm trần: sắc, thanh, 
				hương, vị, xúc và hư không ra thì còn cái gì mới gọi là pháp 
				trần? Đã không chỉ gọi được thì làm sao thành trần cảnh 
				được? Sau cùng Đức Phật mới kết luận rằng pháp trần và ý căn đều 
				là duyên khởi giả dối, không thật, không có tự tánh và vốn là 
				tánh chân như nhiệm mầu của Như Lai Tạng. 
				 
				Cuộc sống hằng ngày, con người suy nghĩ nhiều quá. Suy nghĩ 
				thiện, suy nghĩ ác, suy nghĩ cho mình, suy nghĩ cho người làm 
				phát sinh bao vọng niệm khiến tâm bất tịnh. Nhưng bản chất của 
				tâm thể là lặng lẽ tràn đầy trong sáng và nó ẩn tàng trong tất 
				cả mọi chúng sinh nên được gọi là bản nguyên hay tự tánh. Hằng 
				ngày vì vọng tưởng dấy khởi liên miên nên chúng sinh chỉ thấy 
				được vọng tưởng mà không thấy được tâm thể của mình. Cũng như 
				mặt biển lặng lẽ êm ái, nhưng một ngọn gió mạnh thổi qua làm 
				giết chết sự yên lặng trầm tĩnh mà tạo thành những lượn sóng 
				nhấp nhô gào thét thay thế sự yên lặng trong sáng ban đầu. Suy 
				nghĩ, tư tưởng chính là nguồn gốc của sự mê hoặc làm cho tâm 
				thức của con người càng thêm mê muội và vọng tưởng chính là sản 
				phẩm của nó. Chính vì thấy sự nguy hại của vọng niệm mà Lục Tổ 
				Huệ Năng có dạy rằng : “Khi không nghĩ thiện, không nghĩ ác thì 
				chơn tâm, Phật tánh mới hiện bày”. 
				 
				Mười Tám Giới Là Hiện Tượng Biểu Hiện Từ Như Lai Tạng. 
				 
				Khi mắt thấy được những vật có hình dáng và màu sắc trong một 
				phạm vi giới hạn chỉ dành riêng cho mắt thì gọi là “giới”. Vì 
				thế cái giới của mắt thì gọi là “nhãn giới” nghĩa là cảnh giới 
				của cơ quan thấy. Nếu mắt có thấy thì phải có vật và đối tượng 
				để thấy rồi sau đó mới phát sinh ra cái biết của sự thấy. Cái 
				biết này là “Nhãn thức”. Sau đó tất cả những cái biết về loại 
				thấy này hợp lại thành một thế giới của những cái biết bằng mắt 
				mà nhà Phật gọi là “Nhãn thức giới”. 
				 
				Nói tóm lại đối với “cái thấy” có được ba giới, đó là : 
				 
				1) Một thuộc về căn tức là Nhãn giới. 
				2) Một thuộc về trần tức là Sắc giới. 
				3) Một thuộc về thức tức là Nhãn thức giới. 
				  
				Để dễ dàng thấu hiểu, có 
				tất cả 18 giới của căn, trần và thức mà thường được gọi là “thập 
				bát giới” hay “mười tám giới”. 
				 
				- 6 giới của căn: Nhãn giới, Nhĩ giới, Tỷ 
				giới, Thiệt giới, Thân giới và Ý giới. 
				- 6 giới của trần: Sắc giới, Thanh giới, 
				Hương giới, Vị giới, Xúc giới và Pháp giới. 
				- 6 giới của thức: Nhãn thức giới, Nhĩ 
				thức giới, Tỷ thức giới, Thiệt thức giới, Thân thức giới và Ý 
				thức giới. 
				 
				Bây giờ nếu cộng 6 giới của căn, 6 giới của trần và 6 giới của 
				thức thì có tất cả 18 giới hay “thập bát giới”. 
				 
				Tuy thế gian có muôn hình vạn tướng, lớn nhỏ, thấp bé khác nhau, 
				nhưng nói cho cùng cái vũ trụ vạn hữu vô thỉ vô chung vô cùng vô 
				cực này cũng không ngoài thập bát giới. Nếu chúng sinh có tâm 
				niệm lành, nghĩ việc thiện làm việc tốt thì thập bát giới sẽ 
				biến thành 18 cõi trời đầy phước lạc. Ngược lại nếu chúng sinh 
				có tâm niệm ác, làm những việc bất thiện lợi mình hại người và 
				nói lời độc ác thì cuộc sống hiện tiền cũng ví như đang sống 
				trong 18 tầng địa ngục vậy.  
				Ngày xưa Lục Tổ Huệ Năng 
				cũng dạy rằng : ”Mỗi niệm là một cảnh giới” nghĩa là khi tâm 
				chúng sinh có một niệm lành thì lúc đó họ đang sống trong cảnh 
				giới thần tiên, an nhàn, tự tại. Ngược lại nếu chúng sinh phát 
				sinh một niệm ác thì ngay lúc đó họ đang sống trong cảnh giới 
				đau khổ của súc sanh, địa ngục A tỳ. 
				 
				1) Thu Nhãn (giới), Sắc (giới) Và Nhãn Thức Giới. 
				 
				Lại nữa A Nan! Vì sao 18 giới là hiện tượng biểu hiện từ Như 
				Lai Tạng? 
				 
				A Nan! Như ông đã biết: Nhãn căn và sắc trần làm duyên sanh nhãn 
				thức. Nhãn thức lại là nhân nhãn căn sinh ra, lấy nhãn căn làm 
				giới hay nhân sắc trần sinh ra lấy sắc trần làm giới? 
				 
				A Nan! Nếu bảo rằng nhân nhãn căn sinh ra mà không có sắc có 
				không thì không thể phân biệt dầu cho có cái thức của ông thì 
				đem ra dùng về việc gì? Cái thấy của ông, ngoài những sắc xanh, 
				vàng, trắng, đỏ thì không thể biểu hiện được. Vậy do đâu mà lập 
				thành ra giới? Nếu nhân sắc trần sinh ra thì khi chỉ có hư 
				không, không có sắc, lẽ ra cái thức của ông phải diệt, làm sao 
				còn biết được là hư không? Nếu khi sắc tướng biến đổi thành hư 
				không, ông cũng biết rằng sắc tướng biến đổi. Thế thì do đâu mà 
				lập sắc trần làm giới? Nếu theo sắc trần mà biến đổi thì tự 
				nhiên sắc trần không thành giới được. Nếu không biến đổi thì là 
				thường hằng, cái thức đó do sắc trần sinh ra lẽ ra không thể 
				biết hư không ở đâu? 
				 
				Nếu gom hai thứ nhãn căn và sắc trần chung cùng sinh ra, vậy như 
				hợp lại thì ở giữa phải ly. Còn như ly ra thì hai bên lại hợp. 
				Thể tính xen lộn, làm sao thành giới được? 
				 
				Vậy nên biết rằng nhãn căn sắc trần làm duyên (điều kiện) sanh 
				nhãn thức, cả ba chỗ đều không và ba giới nhãn căn sắc trần và 
				nhãn thức vốn không phải tánh nhơn duyên cũng không phải tánh tự 
				nhiên. 
				 
				Khi mắt (nhãn căn) thấy một cái nhà (sắc trần) thì tâm mới phát 
				sinh cái biết của mắt (nhãn thức). Vì thế thông thường muốn có 
				cái biết của mắt thì phải có căn (mắt) và đối tượng để thấy 
				(trần) tức là cái nhà trong trường hợp này. Để làm cho vấn đề 
				được sáng tỏ, Đức Phật mới hỏi ông A Nan rằng: Nhãn căn (con 
				mắt) và sắc trần (hình sắc) làm duyên sinh ra nhãn thức (cái 
				biết của mắt). Vậy thì, nếu cái biết của mắt (nhãn thức) là do 
				mắt (nhãn căn) sinh ra hay là do đối tượng bên ngoài (sắc trần) 
				sinh ra? 
				 
				1) Nếu nhãn thức là do nhãn căn sinh ra thì không thể thành được 
				vì thiếu đối tượng để thấy tức là sắc trần. Thí dụ, có mắt mà 
				không có cái gì để thấy thì tâm lấy cái gì biết để có sự phân 
				biệt. 
				 
				2) Nếu nhãn thức là do sắc trần sinh ra thì cũng không thể thành 
				được vì thiếu một yếu tố chính là căn mắt để thấy. Thí dụ, thế 
				giới bên ngoài màu sắc rực rỡ huy hoàng mà người mù đâu có thấy 
				biết gì. 
				 
				3) Bây giờ nếu có đủ nhãn căn và sắc trần làm duyên để sinh ra 
				nhãn thức cũng như ly với hợp. 
				 
				- Nếu nhãn căn biết mà sắc trần không biết thì cũng không sinh 
				được nhãn thức. Thí dụ, có mắt mà nhìn vào hư không thì chắc 
				chắn sẽ không có cái biết của mắt được. Nói cách khác, là mắt 
				chẳng thấy biết cái gì. 
				 
				- Nếu nhãn căn không biết mà sắc trần biết thì cũng không sinh 
				được nhãn thức. Ngày nay khi nhìn những ngôi sao trên trời có 
				khi cách xa mấy ngàn năm ánh sáng. Con mắt biết vì mắt thấy được 
				ngôi sao, nhưng ngôi sao lại không thật vì vào thời điểm mắt 
				nhìn thấy nó thì nó đã đi thật xa rồi. Vậy cái biết của mắt là 
				không thật nên không gọi là nhãn thức được. 
				Vì thế ly, hợp lẫn lộn nên không thành nhãn thức giới. 
				 
				Bây giờ Đức Phật mới kết luận rằng nhãn căn duyên với sắc trần 
				sinh ra nhãn thức, nhưng tất cả nhãn căn sắc trần và nhãn thức 
				đều là những niệm huyễn hóa, không có tự tánh và được phát khởi 
				từ bản tánh Bồ-đề (Như Lai Tạng) vốn không phải là tánh nhân 
				duyên và tánh tự nhiên. Vậy 18 giới đều là những vọng niệm phát 
				khởi từ tánh chân như nhiệm mầu của Như Lai Tạng. 
				 
				Đoạn kinh trên Đức Phật muốn nhắn nhủ với chúng sinh rằng tất cả 
				những gì mà mắt thấy được từ bên ngoài đều là vọng niệm, là 
				huyển hóa. Cái thấy biết đó thật ra chỉ là cái thấy biết của sự 
				vô thường, sinh diệt cho nên con người “thấy thật” mà thật ra 
				không phải là “thật thấy”. Thấy thật thì cái gì cũng thấy mà 
				thấy biết sai lầm vì trong cái thấy biết đó đã ngầm chứa phẩm 
				chất tham-sân-si của bản ngã nên cho dù thế gian là sinh diệt, 
				biến hoại mà con người luôn tin chắc vào cái thấy thật đó. Ngược 
				lại, nếu biết rằng vạn pháp giai không thì trên thế gian này đâu 
				có cái gì là bền chắc, là bất tử cho nên con người tuy cũng thấy 
				tất cả nhưng trong tâm họ thật ra không thấy cái gì hết. Tâm 
				không dính mắc, lòng ung dung tự tại thì đây mới chính thật là 
				“thật thấy” vậy. Có lìa huyễn, lìa vọng thức thì chúng sinh mới 
				có thể chuyển tâm về với tự tánh thanh tịnh Bồ-đề của mình được. 
				 
				2) Thu Nhĩ Căn, Thanh Trần Và Nhĩ Thức Giới. 
				 
				A Nan! Như ông đã biết : Nhĩ căn và thanh trần làm duyên sanh 
				nhĩ thức. Nhĩ thức nhơn nhĩ căn sanh ra lấy nhĩ căn làm giới hay 
				lấy thanh trần sinh ra, lấy thanh trần làm giới? 
				A Nan! Nếu nhân nhĩ căn 
				sinh ra mà không có hai tướng động tĩnh hiện tiền thì cái biết 
				của nhĩ căn không thành. Bởi vì chẳng có gì để biết. Cái biết đã 
				không thì cái gọi là “nhĩ thức” hình mạo ra sao? Nếu bảo: Nhĩ 
				thức nhơn thanh trần sanh. Vậy thì nhĩ thức vốn nhơn thanh trần 
				mà có, nó chẳng tương quan gì với tánh nghe của lỗ tai. Đã không 
				nghe thì cũng không biết gì là thanh trần và thanh trần ở đâu. 
				Vì vậy, biết rằng: Nhĩ căn thanh trần làm duyên sanh nhĩ thức 
				giới , ba chỗ đều không. Không phải tánh nhơn duyên cũng không 
				phải tánh tự nhiên. 
				 
				Trong đoạn kinh này, Đức Phật dạy rằng nhĩ căn (lỗ tai) duyên 
				với thanh trần (âm thanh) sẽ phát sinh ra nhĩ thức (cái biết của 
				tai). Thí dụ như khi tai (nhĩ căn) nghe một bản nhạc (thanh 
				trần) làm cho tai biết đó là bản nhạc gì. Vậy cái giới biết của 
				tai là do nhĩ căn sinh ra hay do thanh trần sinh ra? 
				 
				1) Nếu nhĩ thức là do nhĩ căn sinh ra thì cũng không được bởi vì 
				nhĩ căn tự nó không có tự tánh mà cần phải duyên với thanh trần 
				mới tạo thành cái biết. 
				 
				2) Nếu nhĩ thức là do thanh trần sinh ra thì cũng không được bởi 
				vì thanh trần tự nó không có tự tánh mà cần phải duyên với nhĩ 
				căn mới tạo thành cái biết. Thí dụ, trong không gian, âm thanh 
				vang ra khắp mọi chiều, nhưng đối với người điếc thì căn tai 
				không tiếp nhận được những tầng rung động nên không nghe biết gì 
				hết. 
				 
				3) Nếu nhĩ thức là do nhĩ căn duyên với thanh trần, nhưng nhĩ 
				căn và thanh trần chỉ đối đãi với nhau mà có, chớ tự chúng không 
				có. 
				 
				Vì thế, nhĩ căn, thanh trần và nhĩ thức đều là những tướng giả 
				dối, huyển hóa. Chúng không có tự tánh mà chỉ có khi duyên khởi 
				với nhau. Do đó nếu chúng sinh biết thu những tướng giả dối, 
				sinh diệt này thì con người sẽ trở về với bản tánh chân thật 
				trong sáng của Như Lai Tạng. Nhĩ căn duyên với thanh trần bên 
				ngoài để tạo sự phân biệt của cái nghe, nhưng ở đây Đức Phật 
				muốn chúng sinh thông hiểu sáng suốt rằng cho dù có thanh trần 
				hay không nghĩa là bên ngoài có âm thanh hay không thì tánh nghe 
				lúc nào vẫn có với chúng sinh. 
				Thí dụ nếu đánh một tiếng 
				chuông thì tai nghe âm ba vang dội, nhưng khi không đánh chuông 
				nữa thì tai không còn nghe tiếng chuông nhưng tánh nghe vẫn còn 
				đó tức là tai lúc bấy giờ không nghe tiếng chuông nhưng nghe sự 
				yên lặng của không gian chớ không phải không nghe cái gì hết. 
				Một thí dụ khác là khi nghe lời nói dịu ngọt làm tâm lưu luyến. 
				Khi nghe một bản nhạc hay, lời hát thanh thoát, những lời chỉ 
				trích cay đắng, những lời chửi mắng làm tâm bất động mà phát 
				sinh vô số vọng tưởng. Do đó, nếu con người biết thu nhiếp những 
				âm thanh bên ngoài nghĩa là nghe mà như không nghe gì hết thì 
				vọng tưởng sẽ lắng xuống làm tâm an tịnh mà trở về sống với tự 
				tánh thanh tịnh bản nhiên của mình. 
				 
				Trong sáu căn của con người, căn tai là một căn sắc bén nhất. 
				Chính sự sắc bén tinh túy này đã làm con người chạy theo ngoại 
				trần mà ôm vào lòng biết bao phiền não khổ đau. Thói thường, con 
				người thích nghe lời dịu ngọt, chạy theo tiếng thị phi. Nghe ai 
				khen thì thích, nghe lời chỉ trích thì buồn phiền. Bây giờ Phật 
				khai thị cho chúng sinh thấy rằng lời nói âm thanh là giả dối, 
				không thật. Nói hay cách mấy cũng sai chân lý. Vì thế muốn tâm 
				mình được thanh tịnh thì đừng bao giờ chấp vào lời nói đầu môi 
				chót lưỡi cả. 
				Nói tốt cũng nghe, chê bai 
				cũng nghe nhưng nghe xong rồi bỏ, đừng đem nó vào lòng mà tự 
				mình chuốc lấy phiền não khổ đau. Trên thế gian này không ai 
				biết mình bằng mình vì thế những lời tốt xấu thị phi không phải 
				là của mình thì quan tâm đến nó để làm gì? Lục Tổ cũng nói rằng 
				: “Nếu là người tu đạo chân chính thì không thấy lỗi của người 
				mà chỉ nhìn lại lỗi của mình”. Do đó mình thì không thị phi để 
				gây ra khẩu nghiệp còn người thị phi thì mặc kệ họ, đừng chấp. 
				Đây chính là sống với tự tánh thanh tịnh bản nhiên của mình thì 
				sẽ có an vui, tự tại, thanh tịnh Niết bàn. 
				 
				3) Thu Tỷ Căn, Hương Trần Và Tỷ Thức Giới. 
				 
				A Nan! Như ông đã biết: Tỷ căn và hương trần làm duyên sinh 
				tỷ thức. Tỷ thức nhơn tỷ căn sanh, lấy tỷ căn làm giới hay nhơn 
				hương trần sanh lấy hương trần làm giới? 
				 
				A Nan! Ông nghĩ thế nào về tỷ căn? Ông lấy cái mũi thịt hình 
				tướng như hai ngón tay dũi xuống hay lấy sự biết ngửi làm tỷ 
				căn? Nếu lấy hình tướng cái mũi thịt thì chất thịt là thân căn 
				là cái biết cảm xúc. Đã gọi là thân căn thì không phải là tỷ 
				căn, đã gọi rằng cảm xúc thì đó là xúc trần đối với thân căn. 
				Vậy, còn không có gì đáng gọi là tỷ căn, do đâu mà lập thành 
				giới? 
				Nếu lấy cái ngửi biết 
				làm tỷ căn thì trong tâm ông lấy cái gì làm cái có ngửi biết? 
				Nếu lấy lỗ mũi thịt thì cái biết của chất thịt là xúc trần chớ 
				không phải như tỷ căn. Nếu lấy cái hư không làm cái có ngửi biết 
				thì hư không tự biết, còn xác thịt lẽ ra không biết. Như thế, 
				thì lẽ ra hư không là ông, thân của ông mà không có biết thì ông 
				A Nan hiện nay lẽ cũng không còn đâu nữa. 
				 
				Nếu lấy cái hương làm cái có ngửi biết thì cái biết thuộc về 
				hương trần, nào dính gì đến ông? 
				 
				Nếu các mùi hương, thối sinh ra do tỷ căn của ông thì hai mùi 
				thơm, thối kia không sinh ra do cây y lan và cây chiên đàn. Hai 
				vật đó không tới, ông tự ngửi lỗ mũi là thơm hay là thối. Nếu cả 
				hai mùi thơm, thối đều ngửi được cả thì một người ông phải có 
				hai tỷ căn và đứng trước tôi hỏi đạo phải có hai ông A Nan thì 
				ông nào mới là tự thể của ông. Còn nếu tỷ căn là một, thì thơm, 
				thối không hai. Thối đã thành thơm, thơm đã thành thối, hai tính 
				đó đã không có thì lấy gì lập được thành giới? 
				Lại nếu nhân hương trần 
				mà có thì tỷ thức đã nhân hương trần mà có cũng như nhân con mắt 
				có thấy, không thể thấy được con mắt. Tỷ thức nhân hương trần mà 
				có, lẽ ra không biết được hương trần. Nếu biết được hương trần 
				thì không phải do hương trần sinh ra. Nếu không biết được hương 
				trần thì không phải là tỷ thức. 
				Hương trần mà không ngửi 
				biết là có thì cái giới hương trần không thành. Tỷ thức mà không 
				biết hương trần thì cái giới của nó không phải do hương trần mà 
				lập. Đã không có cái thức trung gian thì nội căn, ngoại trần 
				cũng không thành và tất cả những điều ngửi biết kia rốt ráo đều 
				luống dối. 
				 
				Vậy, nên biết rằng tỷ căn, hương trần làm duyên sinh ra tỷ thức. 
				Cả ba chỗ đều không và ba giới tỷ căn, hương trần và tỷ thức vốn 
				không phải tánh nhân duyên cũng không phải tánh tự nhiên. 
				 
				Khi mũi ngửi mùi hương làm phát sinh sự biết của mũi nghĩa là sự 
				phân biệt của mũi đối với mùi hương. Thí dụ, khi vào vườn hoa 
				thì mũi cảm nhận biết bao mùi hương từ những loài hoa khác nhau. 
				Nào là hoa hồng, hoa huệ, hoa dạ lý… Khi vào bếp mũi đón nhận 
				bao nhiêu mùi thơm của thức ăn làm cho thân cảm thấy đói bụng. 
				Hương thơm làm con người mê ly khoan khoái, ngược lại mùi tanh 
				hôi, thối tha làm con người bực bội, khó chịu. 
				 
				Phật mới hỏi A Nan rằng thế nào là căn mũi? Phải chăng căn mũi 
				là một chất thịt tức là phù trần căn để nhận biết hương vị thơm, 
				thối mà tạo thành sự phân biệt của tỷ thức. Nếu căn mũi là chất 
				thịt thì toàn thân cũng là chất thịt mà lại không biết mùi thơm 
				thối? 
				 
				Còn nếu nói rằng tỷ thức là do cái ngửi biết mà phát sinh thì 
				nhìn lại trong cái mũi, cái gì là cái ngửi biết được? 
				 
				1) Nếu cho rằng chất thịt ngửi biết được thì phải có cái gì đụng 
				chạm vào thịt thì mới có sự ngửi biết. Nhưng nếu có cái gì đụng 
				chạm thì đây đâu còn là hương trần mà trở thành xúc trần rồi. 
				 
				2) Nếu cho rằng cái ngửi biết là do hư không mà có thì cái mũi 
				là chất thịt đâu phải hư không cho nên ông A Nan bây giờ không 
				còn là chất thịt mà là hư không. Điều này không đúng. 
				 
				3) Nếu cho rằng hương trần là cái ngửi biết thì cái biết thuộc 
				về hương trần nào chớ có dính dấp gì tới ông A Nan đâu. 
				 
				4) Còn nếu cho rằng hai mùi thơm thối là do tỷ căn sinh ra thì 
				khi không đem hai cây ỷ lan và cây chiên đàn đến lỗ mũi thì làm 
				sao lỗ mũi biết được mùi thơm? Hoặc nếu cho rằng mũi ngửi được 
				mùi thơm từ cây ỷ lan và cây chiên đàn thì lẽ ra mũi phải có hai 
				tỷ căn để ngửi được hai mùi. Nếu chỉ có một lỗ mũi thì mùi thơm, 
				thối lẫn lộn, làm sao phân biệt được? 
				 
				Tất cả những lý luận trên là Đức Phật muốn khai thị cho ông A 
				Nan đừng chấp vào hương trần và ngay cả tỷ căn của mình vì chúng 
				là huyển hóa, không thật, không có tự thể. Một lần nữa Phật muốn 
				nhắn nhủ với chúng sinh là văn tự lời nói là không thật nên nói 
				sao cũng được. Lời nói chỉ là phương tiện để tiến về cứu cánh 
				giác ngộ. Lời Phật nói ở đây cũng không thật vì ai cũng biết lỗ 
				mũi có những tuyến để tiếp nhận những hương vị bên ngoài mà mũi 
				ngửi được. Sau đó những tuyến nầy chuyển tất cả những cảm xúc 
				vào hệ thần kinh và được chuyển vào hệ thống não bộ để cho con 
				người có sự phân biệt thơm, thối… Do đó muốn có tỷ thức thì bắt 
				buộc phải có tỷ căn duyên với hương trần, nhưng tỷ căn, hương 
				trần tự nó là giả dối, không có tự thể. Vì thế hương trần mà 
				không duyên với tỷ căn thì lỗ mũi cũng không bao giờ biết được 
				mùi hương. 
				 
				Sau cùng Đức Phật mới dạy rằng nếu chúng sinh đừng chấp vào 
				hương vị bên ngoài nghĩa là ngửi mà không có sự phân biệt tức là 
				ngửi thì cái gì cũng ngửi mà như không ngửi cái gì hết thì vọng 
				tưởng không dấy khởi và tâm sẽ được thanh tịnh. Cái si mê say 
				đắm cuộc đời thì đa hình đa dạng, nhưng thật ra hương vị đã làm 
				cho con người sống trong điên đảo. Ngày nay kỷ nghệ biến chế 
				nước hoa rất thành công trên thế giới lên đến hàng tỷ mỹ kim cho 
				cả hai phái nam, nữ. Vì sao? Con người vì còn chạy theo hương 
				trần quyến rũ làm tăng trưởng lòng tham dục khiến tâm phát sinh 
				vô số vọng tưởng mà sống trong điên đảo khổ đau. Cái hương vị là 
				ở bên ngoài thì nó sẽ tàn phai và lúc bấy giờ con người thật của 
				mình hiện ra thì những giây phút hạnh phúc tạm bợ đó có còn nằm 
				trong tay của mình nữa không? 
				Người Tây Phương ưa chuộng 
				hình thức bên ngoài nên con số ly dị ở Hoa kỳ lên đến trên 50%. 
				Nếu con người đừng chấp vào hình tướng sinh diệt bên ngoài mà 
				quay về với nội tâm trong sáng, với tánh đạo đức thuần lương thì 
				cuộc sống sẽ vô cùng tự tại. Một thí dụ khác, có người tặng hoa 
				hồng thơm thì thích còn hoa cúc thì không vui. Ngửi đồ ăn có 
				thơm ngon mới ăn còn không thì gây gổ đánh đập vợ con gây ra lắm 
				điều phiền não khổ đau. Bây giờ biết thức tỉnh, nghe lời Phật 
				dạy không chạy theo những hương vị bên ngoài thì con người sẽ 
				quay trở về sống gần với chân tánh thanh tịnh của mình thì chắc 
				chắn phiền não tan biến, khổ đau tiêu trừ và dĩ nhiên sẽ có an 
				lạc, thanh tịnh Niết bàn. 
				 
				4) Thu Thiệt, Vị Và Thiệt Thức Giới. 
				 
				A Nan! Như ông đã biết : Thiệt căn và vị trần làm duyên sanh 
				thiệt thức. Thiệt thức nhơn thiệt căn sanh, lấy thiệt căn làm 
				giới hay nhơn vị trần sanh. Lấy vị trần làm giới? 
				 
				A Nan! Nếu nhân thiệt căn sinh ra thì như trong thế gian những 
				loại mía ngọt, me chua, hoàng liên đắng, muối mặn, tế tân, gừng 
				quế cay đều không có vị, ông tự nếm cái lưỡi là ngọt hay là 
				đắng. Nếu cái lưỡi là đắng thì lấy cái gì mà nếm cái lưỡi. Cái 
				lưỡi đã không thể tự nếm được thì lấy gì mà có hay biết . Còn 
				nếu cái lưỡi không đắng thì tự nhiên vị trần không sinh ra, làm 
				sao mà lập được thành giới? 
				 
				Nếu nhân vị trần sinh ra, vậy thiệt thức đã là vị rồi thì cũng 
				đồng như thiệt căn, không thể tự nếm được, làm sao còn biết được 
				là có vị hay không có vị? Lại tất cả các vị không phải do một 
				vật sinh ra. Các vị đã do nhiều vật sinh ra thì cái thiệt thức 
				do vị trần sinh ra cũng phải có nhiều tự thể. Nếu tự thể của 
				thiệt thức là một và tự thể đó thật do vị trần sinh ra thì các 
				vị mặn, nhạt, chua, cay và nhiều vị khác nhau, do các thứ đó hòa 
				hợp cùng sinh ra đều chỉ là một vị, lẽ ra không có phân biệt. Mà 
				đã không có phân biệt thì không thể gọi là thức, làm sao còn gọi 
				là giới thiệt thức? Không lẽ hư không lại sinh được cái thức của 
				ông? 
				Nếu thiệt căn, vị trần, 
				hòa hợp mà sinh ra cái thức ở giữa, vốn không tự tánh, làm sao 
				mà lập được thành giới? Vậy, nên biết rằng thiệt căn, vị trần 
				làm duyên, sinh ra thiệt thức, cả ba chỗ đều không và ba giới 
				thiệt căn, vị trần và thiệt thức vốn không phải tánh nhân duyên 
				cũng không phải tánh tự nhiên. 
				   
				Ở đây cái lưỡi cũng cần 
				phải duyên với mùi vị thì mới có sự phân biệt chua cay, mặn ngọt 
				được. 
				 
				1) Nếu bảo rằng cái lưỡi tự nó có mùi vị thì những chất cay 
				đắng, bùi ngọt là có sẳn trong cái lưỡi chớ không phải do những 
				vật chất bên ngoài đưa vào. Như thế tự cái lưỡi là mùi vị đắng 
				cay chua ngọt thì làm sao cái lưỡi có thể nếm được những mùi vị 
				bên ngoài? Còn nếu cái lưỡi tự nó không có mùi vị thì mùi vị 
				không lẽ tự nhiên trên trời bay vào? 
				 
				2) Nếu sự phân biệt của lưỡi là do mùi vị ở bên ngoài thì sự 
				phân biệt chính là cái lưỡi mà cái lưỡi tự nó không thể nếm được 
				thì làm sao biết được mùi vị. Thêm nữa, mùi vị cay đắng mặn ngọt 
				là do rất nhiều vật chất cho nên thiệt thức (sự phân biệt của 
				lưỡi) có tự thể nghĩa là thiệt thức chỉ có thể nếm được một vị 
				thì làm sao có sự phân biệt khác nhau giữa mùi vị này mùi vị 
				kia? 
				 
				Như vậy thiệt căn duyên với vị trần sinh ra thiệt thức, nhưng 
				chính thiệt căn, vị trần và thiệt thức là giả dối, không có tự 
				tính, sinh sinh diệt diệt vốn là bản tánh chân như nhiệm mầu của 
				Như Lai Tạng. 
				 
				Trong thế gian có biết bao vật chất có những mùi vị khác nhau 
				như mặn, ngọt, chua, cay…, nhưng chính cái lưỡi tự nó không có 
				mùi vị. Khoa học ngày nay giải thích rằng bên dưới cái lưỡi có 
				rất nhiều tuyến có khả năng thu nhận những mùi vị. Thí dụ bên 
				ngoài của lưỡi tiếp nhận mùi ngọt, bên trong mùi đắng, hai bên 
				là mùi chua cay… Khi có sự tiếp xúc những tuyến này liền chuyển 
				tất cả những tín hiệu nhận được qua hệ thống thần kinh để vào 
				trung ương não bộ. Từ đó thần kinh não bộ sẽ cho con người biết 
				đó là mùi vị gì. Tuy nói dài dòng nhưng thực ra hiện tượng này 
				xảy ra rất nhanh, có lẽ vài nano seconds (vài phần trăm ngàn của 
				một giây). 
				Đoạn kinh này Đức Phật muốn 
				nhắn nhủ với chúng sinh rằng hiện tượng bên ngoài là sinh diệt, 
				mùi vị cay đắng, mặn ngọt cũng là sinh diệt. Nếu chúng sinh còn 
				đem những hiện tượng sinh diệt này vào trong tâm thì vọng tưởng 
				chắc chắn sẽ phát sinh để thỏa mãn những dục vọng đòi hỏi bởi 
				thiệt thức. Còn sống thì dĩ nhiên ai cũng biết mùi này mùi nọ vì 
				đây là tánh nếm không có sự phân biệt và dĩ nhiên không có tai 
				hại tức là tánh nếm còn trong trạng thái hiện lượng. Nhưng nếu 
				để tâm chuyển từ tánh nếm sang thiệt thức thì bây giờ tánh nếm 
				chân thật biến mất mà thay vào đó bằng biết bao vọng thức (tỷ 
				lượng) làm tâm bất tịnh mà chạy theo sinh tử luân hồi. 
				 
				5) Thu Thân, Xúc và Thân Giới Thức. 
				 
				A Nan! Như ông đã biết: Thân căn và xúc trần làm duyên sanh 
				thân thức. Thân thức nhơn thân căn sanh, lấy thân căn làm giới 
				hay nhơn xúc trần sanh, lấy xúc trần làm giới? 
				 
				A Nan! Nếu nhân thân căn sinh ra, không có cái duyên của hai cảm 
				xúc hợp và ly, thì thân căn còn biết gì. Nếu nhân xúc trần sinh 
				ra mà không có thân căn của ông thì có ai không có thân căn mà 
				biết hợp, biết ly được. 
				 
				A Nan! Vật thì không xúc không biết. Thân có biết có xúc. Biết 
				thân là do có xúc. Biết xúc do có thân. Đã là xúc thì không phải 
				là thân. Đã là thân thì không phải là xúc. Thân căn và xúc trần 
				không có xứ sở. Nếu xúc trần hợp nhất với thân căn thì hóa thành 
				tự thể của thân căn rồi. Nếu xúc trần tách rời thân căn thì 
				chẳng khác hư không và các tướng, không quan hệ gì nhau. Nội căn 
				ngoại trần đã không thành thì làm sao lập được cái thức ở giữa. 
				Thức đã không lập được thì nội căn ngoại trần bản tánh rỗng 
				không. Ông sẽ dựa vào đâu để mà thành lập thân thức giới? Vì 
				vậy, nên biết rằng: Thân căn xúc trần làm duyên sanh thân thức 
				ba chỗ đều không. Và ba giới thân căn, xúc trần và thân thức vốn 
				không phải tánh nhân duyên cũng không phải tánh tự nhiên. 
				 
				Thân căn duyên với xúc trần phát sinh ra thân thức. Thí dụ khi 
				đưa tay ra sờ một cục nước đá thì bàn tay cảm thấy lạnh lẽo, giá 
				buốt. Mình mặc chiếc áo lông thì cảm thấy êm ái. Vì vậy cảm xúc 
				là do ngoại trần chạm với thân thể mà có, nhưng ngoại vật là vô 
				tri, vô giác, tự nhiên không biết thế nào là cảm xúc. Con người 
				có biết được cảm xúc là do thân căn và có biết được thân căn là 
				bởi do cảm xúc. Nhưng thân căn không phải là cảm xúc và cảm xúc 
				cũng không phải là thân căn. 
				 
				1) Nếu cảm xúc là thân căn thì căn và trần phải là một, đâu có 
				cái ở ngoài hay cái ở trong được. 
				 
				2) Nếu cảm xúc riêng ở ngoài thân căn thì cảm xúc bây giờ trở 
				thành hư không. Mà hư không thì làm gì có cảm xúc? 
				  
				3) Nếu nội căn và ngoại 
				trần đã không thể thành lập thì thân thức ở giữa cũng không thể 
				thành lập được. Vậy thân căn, xúc trần và thân thức là bản thể 
				thanh tịnh chân như nhiệm mầu của Như Lai Tạng, nhưng khi duyên 
				khởi liền biến thành hiện tượng sinh diệt. 
				 
				Như thế sắc, thanh, hương, vị, xúc tự tánh là thanh tịnh, đâu có 
				nhiễm ô nên được gọi là pháp tánh nghĩa là tánh thanh tịnh bản 
				nhiên của vạn pháp trong vũ trụ. Nói cách khác, vạn pháp trong 
				vũ trụ này không có gì là trần (tội lỗi, nhớp nhơ) cả mà chỉ vì 
				chúng sinh không làm chủ được tâm tánh thanh tịnh bản nhiên của 
				mình nghĩa là con người vì không giữ nổi vai trò chủ nhân ông 
				của mình mà để cho khách trần phiền não (có đến rồi lại đi) sai 
				khiến làm tâm bất tịnh mà sống trong điên đảo khổ đau. Do đó 
				người tu Phật tức là người “vô tâm” nghĩa là thế gian vũ trụ cái 
				gì cũng thấy, cũng biết, cũng nếm, cũng ngửi nhưng không để tâm 
				dính mắc vào bất cứ cái gì nghĩa là “gió theo lối gió mây đường 
				mây” thì sẽ có tâm thanh tịnh, cuộc sống sẽ vô cùng an vui, tự 
				tại. 
				 
				6) Thu Ý, Pháp và Ý Thức Giới. 
				 
				A Nan! Như ông đã biết : Ý căn và pháp trần làm duyên sanh ý 
				thức. Ý thức nhơn ý căn sanh, lấy ý căn làm giới hay nhơn pháp 
				trần sanh, lấy pháp trần làm giới? 
				 
				A Nan! Nếu bảo rằng ý căn sanh thì trước hết ông phải có suy 
				nghĩ, từ đó mới phát minh được cái ý của ông. Dù ý ông đã có, 
				nhưng nếu không có đối tượng pháp trần thì ý căn của ông cũng 
				không thể sanh được. Rời các pháp trần không thể nương vào đâu 
				nhận thức hình mạo ý căn thì cái ý thức còn đem dùng vào việc 
				gì? 
				 
				Lại nữa, ý thức của ông cùng với các thứ tư duy, nghĩ ngợi là 
				đồng hay khác? Nếu đồng với ý căn thì thức là ý căn, duyên cớ gì 
				phải có ý căn để rồi mới sinh ra ý thức? Nếu khác với ý căn, lẽ 
				ra nó sẽ không còn biết được gì. Nếu không được gì, sao lại bảo 
				nó do ý căn sanh ra? Nếu có biết thì cần chi phải gọi ý thức và 
				ý căn cho thêm chuyện? Chỉ có hai tánh đồng hay khác mà còn 
				không ổn định thì làm sao thành lập “giới” của ý thức cho được? 
				 
				Nếu bảo rằng nhơn nơi pháp trần sanh, thì các pháp trong thế 
				gian không ngoài năm trần. Ông hãy xét các pháp: Sắc, thanh, 
				hương, vị, xúc có tướng rõ ràng chúng là những đối tượng của năm 
				căn, những pháp đó không thuộc phần tiếp thu của ý căn. Nếu bảo 
				rằng ý thức của ông, nương pháp trần. Vậy ông xét kỹ xem cái 
				tướng của pháp trần hình mạo như thế nào? Nên biết: Rời hẳn các 
				tướng: Sắc, không, động, tĩnh, thông, bít, hợp, ly, sanh, diệt, 
				rốt ráo không thành một pháp nào được cả. Các nguyên nhân đã 
				không thành thì cái thức do nó sanh ra còn có dáng mạo gì. Dáng 
				mạo còn không có, làm sao mà lập được cái giới của ý thức? Vậy 
				nên biết rằng: Ý căn, pháp trần làm duyên sanh ý thức, cả ba đều 
				không. Và ba giới ý căn, pháp trần và ý thức vốn không phải tánh 
				nhân nhiên cũng không phải tánh tự nhiên. 
				 
				Sắc, thanh, hương, vị, xúc là những ngoại trần nên dễ phân biệt, 
				ngược lại pháp trần thuộc về tư tưởng nên tương đối khó nhận 
				diện. Như kinh đã nói, ý căn duyên với pháp trần sinh ra ý thức. 
				Vậy thức nầy từ ý căn ra, lấy ý căn làm giới hay từ pháp trần ra 
				lấy pháp trần làm giới? 
				 
				Lục Tổ ngày xưa dạy rằng mắt, tai, mũi, lưởi, thân là năm cửa 
				thành và vị tướng quân trấn giữ tất cả năm cửa thành là ý. Trong 
				thành có vua cai quản toàn dân, chính là pháp tánh thanh tịnh 
				của tất cả chúng sinh. Ý là tư tưởng, là sự suy nghĩ của tâm. Vì 
				không tự chủ được những ý nghĩ của mình nên con người để cho nó 
				nghĩ gần, nghĩ xa, nghĩ lợi, nghĩ hại, nghĩ tốt, nghĩ xấu… Còn 
				pháp trần là những tư tưởng, ý nghĩ phát xuất từ trong tâm. Có 
				khi chúng sinh hồi tưởng suy nghĩ về chuyện quá khứ đã xảy ra, 
				có lúc suy nghĩ những chuyện xảy ra trong hiện tại và đôi khi 
				cũng còn suy nghĩ cho những chuyện sẽ xảy ra cho tương lai. Có ý 
				nghĩ đem lại sự thanh thoát an nhàn, cũng có những ý nghĩ đem 
				đến phiền não khổ đau. Nói chung pháp trần là những ý tưởng có 
				tính cách làm nhiễm ô tâm tánh con người. 
				 
				Vậy ý căn mà không duyên được với ý trần thì ý thức không thể 
				sinh được. Thí dụ chúng ta cố suy nghĩ mà không biết suy nghĩ về 
				vấn đề gì thì không bao giờ ý thức thành lập được. Suy nghĩ mông 
				lung không đầu không đuôi thì chỉ phí thì giờ là vậy. Hoặc: 
				 
				1) Nếu sự suy nghĩ và ý thức là ý căn thì ý thức bây giờ là ý 
				căn thì tại sao lại nói cần có ý căn mới 
				sinh ra ý thức? 
				 
				2) Nếu sự suy nghĩ và ý thức khác với ý căn nghĩa là ý căn có 
				biết thì ý thức phải không biết. Nếu đã không biết làm sao phân 
				biệt được tất cả các sự vật? Mà nếu ý thức không biết thì chắc 
				chắn không thể do ý căn sinh ra. Còn nếu như ý thức có biết thì 
				tại sao lại phân chia ra ý thức và ý căn? 
				 
				Chỉ như thế đã thấy lộn xộn, không thể giải quyết thì làm sao mà 
				lập được thành giới? 
				 
				Bây giờ nếu cho rằng ý thức là do pháp trần sinh ra thì ngoài 
				sắc, thanh, hương, vị, xúc ra thì cái gì gọi là pháp trần. Còn 
				nếu nói các sắc trần như sắc, thanh, hương, vị, xúc sinh thì gọi 
				là sinh và các sắc trần sắc, thanh, hương, vị, xúc diệt thì gọi 
				là diệt. Như vậy chính pháp trần đã không có tự thể thì cái ý 
				thức do pháp trần sinh ra làm sao có hình tướng cho được? 
				 
				Vậy ý căn, pháp trần và ý thức cả ba đều là duyên khởi, không có 
				tự tánh nên chúng là giả dối, huyễn hóa. Tuy là không thật nhưng 
				chúng phát xuất từ tự tánh thanh tịnh bản nhiên tức là Như Lai 
				Tạng bản thể vậy. 
				 
				Trọng tâm của Lục Tổ Huệ Năng dạy trong kinh Pháp Bảo Đàn là 
				chúng sinh muốn có tâm thanh tịnh thì phải áp dụng ba cái Vô : 
				 
				1) Vô niệm vi tong: Phàm là con người thì lục căn lúc nào cũng 
				có thể tiếp xúc với sáu trần, nhưng nếu muốn tâm đừng phát sinh 
				vọng tưởng thì cho dù mắt thấy sắc, tai nghe âm thanh, mũi ngửi 
				hương vị, lưỡi nếm mùi vị, thân cảm xúc nóng lạnh hay ý có suy 
				nghĩ gì mà tâm không khởi vọng niệm chạy theo. Nói cách khác 
				thấy thì cái gì cũng thấy mà không thấy cái gì hết, nghe thì 
				nghe tất cả mà như không nghe gì cả… Cảnh vật, âm thanh… cũng 
				như gió thoảng, mây bay có đến rồi lại đi, đừng chấp thủ, giữ 
				lại trong lòng. Con người làm chủ tâm mình thì có an lạc, thanh 
				tịnh Niết bàn, ngược lại nếu tâm làm chủ thì con người làm nô lệ 
				cho vô minh phiền não, thế thôi. 
				 
				2) Vô tướng vi thể: Tất cả vạn pháp trong thế gian này là từ 
				nhân duyên kết hợp nên chúng không có tự thể nghĩa là vô ngã tức 
				là Không. Khi đã thấu hiểu vạn pháp là giả dối, không thật, nay 
				có mai không thì con người đừng chạy theo sắc trần một các mù 
				quáng làm tâm bất tịnh. Chỉ khi nào chúng sinh quán tưởng để 
				thấy biết bằng trí thật tướng của vạn pháp thì cái thấy biết này 
				mới là chân lý. 
				 
				3) Vô trụ vi bổn: Vô trụ là không dính mắc. Vậy không dính mắc 
				cái gì? Sáu trần là những cục nam châm có sức hút rất mãnh liệt 
				làm cho sáu căn mê muội khiến tâm phát sinh vọng tưởng sai lầm 
				làm cho con người sống trong điên đảo khổ đau. Đây chính là “Ưng 
				vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” trong kinh Kim Cang vậy. Vậy muốn có 
				cuộc sống tự tại an nhàn thì từng giây, từng phút, từng giờ, 
				từng hơi thở con người nên giữ chánh niệm, đừng để tâm buông 
				lung chạy theo tham đắm dục tình. 
				 
				Ngày xưa Đức Phật Thích Ca khi chưa thành đạo, vào núi tuyết tu 
				sáu năm khổ hạnh tức là Ngài tu sáu căn vậy. Do đó có thành 
				người, thành thánh, thành Bồ-tát, thành Phật cũng do sáu căn. Mà 
				có thành ma, thành ngạ quỷ súc sanh hay bị đọa vào đia ngục A tỳ 
				cũng bởi do sáu căn. Người đời thường vui thích theo ái dục, ưa 
				dong ruổi lục trần, tự lao mình trong lưới buộc như nhện giăng 
				tơ, tuy họ có hướng cầu an lạc, nhưng vẫn bị quanh quẩn trong 
				chốn trầm luân. Chỉ có những ai dứt được sự ràng buộc, sáu căn 
				thường sáng tỏ, thì sẽ xa mọi thống khổ để ngao du tự tại. 
				 
				Tóm lại, thế gian vũ trụ không có cái gì là phiền não khổ đau 
				cả, chỉ vì tâm chúng sinh duyên với ngoại trần khiến vọng tưởng 
				phát sinh làm tâm bất tịnh. Ngay cả sáu trần: sắc, thanh, hương, 
				vị, xúc, pháp tự chúng không bao giờ có nhiễm ô, bất tịnh cả vì 
				tất cả vạn hửu đều có pháp tánh. Mà ô nhiễm, tham đắm là do con 
				người chạy theo tham dục chớ không phải do ngoại trần. Nói về 
				mặt chân đế thì cái tánh thanh tịnh bản nhiên của vạn pháp thì 
				gọi là pháp tánh và tánh thanh tịnh bản nhiên của con người thì 
				gọi là Phật tánh. 
				  
				Thí dụ có một đóa hoa rất 
				thơm, hương sắc tuyệt vời thì tự thể của đóa hoa đâu có tội lỗi, 
				ô nhiễm chi đâu. Nhưng khi mắt thấy sắc hoa, mũi ngửi hương thơm 
				thì tâm liền phân biệt khiến vọng tưởng phát sinh làm lòng tham 
				nổi dậy mà muốn cắt đóa hoa đem về chưng trong nhà. Ngược lại 
				đối với Đức Phật thì mắt cũng thấy, mũi vẫn ngửi nhưng tâm “vô 
				động” thì thấy cũng như không thấy, ngửi cũng như không ngửi vì 
				thế lòng tham không nổi dậy nên Ngài mới có vô thượng Niết bàn. 
				Vậy thế gian vũ trụ này thật ra không có cái gì là trần cả mà có 
				trần chỉ khi nào chúng sinh không làm chủ được vai trò chủ nhân 
				ông nghĩa là không làm chủ tâm tánh của mình mà để cho khách 
				trần phiền não có đến có đi, có sinh có diệt chi phối. Do đó 
				muốn có cuộc sống an vui tự tại thì mắt thấy sắc đừng bị sắc 
				trói cột, đừng dính với sắc. 
				Tai nghe tiếng đừng để 
				tiếng lôi cuốn, đừng dính nhiễm với tiếng. Mũi ngửi mùi đừng bị 
				mùi trói cột, đừng dính mắc với mùi. Lưỡi nếm đừng bị vị trói 
				buộc, đừng dính mắc với vị. Thân xúc chạm dù cho êm ái nhẹ nhàng 
				vui thích hay thô nhám bực bội cũng không bị dính cột trói, đừng 
				dính mắc với xúc. Ý duyên với pháp trần không bị pháp trần quyến 
				rũ, không dính mắc với pháp trần. Vì thế nếu mắt, tai, mũi, 
				lưỡi, thân và ý không dính mắc với sắc, thanh, hương, vị, xúc, 
				pháp thì phiền não tan biến, Niết bàn hiễn lộ, chân tánh hiện 
				bày. Đây chính là thực hành rốt ráo câu : “Ưng vô sở trụ nhi 
				sanh kỳ tâm” vậy. Nên nhớ sự an lạc, tự tại là ở trong nội tâm 
				chớ không phải do ngoại cảnh mà có vì thế người không có sự an 
				lạc bên trong mới chạy đi tìm những sự hạnh phúc giả tạm, hạnh 
				phúc có điều kiện bên ngoài. Nhưng càng tìm kiếm thì họ càng 
				chuốc thêm cho mình những phiền não khổ đau cũng như rượu càng 
				uống, càng say, càng khổ chẳng ích gì. 
				 
				Một hôm, sau khi khất thực và thọ trai xong trở về tịnh xá Kỳ 
				Viên, Đức Thế Tôn được báo cáo có một vị tân tỳ kheo (tỳ kheo 
				mới thọ giới) lâu nay bỗng đâm ra thẫn thờ, biếng nhác không 
				chịu đi khất thực, không tọa thiền, không thiết tha ăn uống. Khi 
				Đức Phật đến am thất của vị tỳ kheo ấy thì thấy vị đại đức râu 
				tóc mọc dài, mặt mày tiều tụy hốc hác. Phật biết ngay đây là 
				tình trạng của một người đã bị một con hổ cái hớp hồn. Vị đệ tử 
				sa nước mắt thú thật với Phật rằng : 
				 
				- Bạch Thế Tôn! Mong Thế Tôn cứu vớt con, thực sự con bị nữ sắc 
				lôi cuốn. Con cố chống cự mà dường như vô hiệu quả, hình ảnh 
				nàng mãi ám ảnh tâm tư con, làm cho con đau khổ. Con thật không 
				xứng đáng là tỳ kheo. Con muốn chết. 
				 
				Đức Phật mĩm cười an ủi : 
				 
				- Ông hãy bình tĩnh lại.  
				 
				- Bạch Thế Tôn! Làm sao con vượt qua được, khi hình ảnh mỹ miều 
				khả ái của nàng cứ ám ảnh con hoài? 
				 
				- Đó là vì ông mới nhìn qua một lần mà không nhiếp tâm quan sát. 
				Ông chỉ thấy một cái đẹp mà chưa thấy những cái xấu, cái nguy 
				hiểm của nữ sắc. Nếu ông thấy được toàn diện như thế thì ông sẽ 
				thoát ra khỏi sự đam mê. Đối với nữ sắc, cần phải quán ba điều: 
				vị ngọt, nguy hiểm và sự thoát ly khỏi sắc. 
				
				
				 |  
				 |