|   Thiên Chúa giáo, Hồi giáo 
				hay Tin lành chỉ tin có một Thượng đế duy nhất thì gọi là nhất 
				thần giáo. Trong khi đó, đạo Khổng hay đạo Lão tin vào nhiều 
				đấng thần linh nên những đạo này được gọi là đa thần giáo. 
				 
				Ngược lại, đạo Phật không phải là nhất thần giáo, cũng chẳng là 
				đa thần giáo mà cũng không phải là giáo điều chủ nghĩa tức là vị 
				giáo chủ đưa ra bất cứ giáo điều gì cho dù đúng hay sai thì tín 
				đồ bắt buột răm rắp tuân theo. Chính Đức Phật đã khẳng định 
				rằng: 
				“Ta không là Thượng đế, 
				cũng không phải là thần linh, mà chỉ là một con người, nhưng con 
				người đã chiến thắng thế gian”. 
				 
				Đức Phật đã chiến thắng thế gian, nhưng Ngài không cần ngai vàng 
				để ngự trị và cũng không cần thần dân để được tôn vinh. Ngài 
				sống rất thảnh thơi với ba mảnh y và một bình bát, nhưng chiến 
				thắng được tâm mình để sống với chơn tánh mới là cái chiến thắng 
				vĩ đại của bậc Đại giác, Đại hùng vậy. Chỉ sau khi Ngài nhập 
				diệt, con người mới tôn thờ Ngài, sùng tín Ngài như các vị thần 
				linh. Tóm lại, Đức Phật chỉ là một đạo sư, là ngọn đuốc tuệ để 
				giúp chúng sinh nương theo đó mà tìm ra con đường sáng, con 
				đường giải thoát giác ngộ cho chính mình. 
				 
				Để giải thích mối quan hệ giữa lòng tin và trí tuệ, Đức Phật dạy 
				rằng : 
				 
				“Người có lòng tin mà không có trí tuệ thì thường làm tăng 
				trưởng vô minh. Người có trí tuệ mà không có lòng tin thì thường 
				làm tăng trưởng tà kiến”. 
				 
				Trí tuệ ở đây cần được hiểu là năng lực suy xét và phán đoán mọi 
				sự việc cho nên nếu trí tuệ không có lòng tin vào Chánh pháp thì 
				người tu tập dễ rơi vào tà kiến, tăng trưởng tự cao, tự đại, 
				luôn cố chấp không thấy được chỗ sai lầm của mình. Ngược lại, 
				người có lòng tin vào Chánh pháp mà thiếu đi trí tuệ để nhận 
				hiểu và phân biệt đứng đắn thì dễ dàng lún sâu vào chỗ si mê, 
				tăm tối, mê tín dị đoan. Vì thế mà trong Bát Chánh Đạo tức là 
				tám con đường chân chính giúp chúng sinh chuyển cuộc sống từ 
				phàm đến thánh chỉ có chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ,
				chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, 
				chánh niệm và chánh định mà không hề có chánh tín. Đức Phật 
				không phải là đấng thần linh nên Ngài không bắt buộc chúng sinh 
				phải tin vào Ngài một cách tuyệt đối. Ngược lại, Đức Phật dạy 
				chúng sinh phải tư duy quán chiếu, suy nghiệm những lời Phật dạy 
				một cách khách quan, đứng đắn thì mới có lợi ích cho mình. Đức 
				Phật muốn chúng sinh thấu hiểu chánh pháp để thấy biết đúng, suy 
				nghĩ đúng mà có cuộc sống thanh bình an lạc thì lúc đó con người 
				đâu còn tin vào tà kiến, mê tín dị đoan. Vì thế hãy lắng nghe 
				thông điệp của Đức Phật chính là con đường sống cao thượng của 
				cuộc đời: 
				 
				“Hãy tránh xa tất cả những hành động tội lỗi, trau dồi cuộc sống 
				bằng những hành động tốt, thanh lọc tâm trí khỏi những ý nghĩ 
				bất tịnh”. 
				 
				Trước khi nhập diệt, Đức Phật dạy rằng: 
				 
				“Các con là những hải đảo, những ngọn đuốc cho chính mình. Hãy 
				nương tựa vào chính mình, không nương tựa vào nơi nào khác”. 
				 
				Trong kinh Pháp Cú, Phật lại dạy thêm: 
				 
				“Các con hãy tự thắp đuốc lên mà đi! Các con hãy lấy Pháp của ta 
				làm đuốc! Hãy theo Pháp của ta mà tu giải thoát! Đừng tìm sự 
				giải thoát ở một kẻ nào khác, đừng tìm sự giải thoát ở một nơi 
				nào khác, ngoài các con”. 
				 
				Và sau cùng Đức Phật dạy rằng: 
				 
				“Các con hãy tự cố gắng, Như Lai chỉ là kẻ dẫn đường”. 
				 
				Đạo Phật là tôn giáo duy nhất trên hoàn cầu xác định rằng cánh 
				cửa thành công để đạt đến cứu cánh giải thoát giác ngộ phải mở 
				rộng cho tất cả mọi người, từ nam nữ, lớn nhỏ, sang hèn, cao 
				thấp, đạo đức hay tội lỗi. Nếu chúng sinh biết cải thiện đời 
				sống trong sạch, hóa giải hết phiền não vô minh thì sẽ có được 
				Bồ-đề, Niết bàn như Phật. 
				 
				Không phải ngày nay con người mới nghe đến những tôn giáo thuộc 
				về “Thiên chủ tạo vật” mà vào thời Đức Phật đã có những giáo 
				thuyết như vậy rồi. Đó là “Thượng đế tạo ra tất cả mọi người, 
				mọi vật. Thượng đế chịu trách nhiệm tất cả mọi việc. Thượng đế 
				ban thưởng và tha thứ tội lỗi của chúng ta. Thượng đế chịu trách 
				nhiệm về cuộc đời chúng ta sau khi chúng ta chết. Thượng đế sẽ 
				cho ta lên thiên đường hay bắt ta xuống địa ngục”. Ở đây, Đức 
				Phật không hứa hẹn hạnh phúc hay ban thưởng cho những ai tự nhận 
				là tín đồ của Ngài và Ngài cũng không hứa hẹn cứu rỗi cho những 
				ai đặt niềm tin nơi Ngài. Đức Phật không khuyên các đệ tử của 
				Ngài đi cải đạo dân chúng, những người mà nếu không theo sẽ bị 
				đọa vào địa ngục. 
				Ngài và tín đồ của Ngài 
				không chỉ trích những người khác đạo là những người phạm tội sẽ 
				bị đọa vĩnh viễn nơi địa ngục. Theo tinh phần Phật giáo, cả đến 
				những người không đạo nhưng biết sống trong phẩm hạnh và có lòng 
				từ bi thì vẫn có thể lên thiên đường như thường. Đối với Ngài, 
				tôn giáo không phải là sự mặc cả, mà là con đường sống cao 
				thượng để đạt đến cứu cánh tột đỉnh là giải thoát giác ngộ. Đức 
				Phật không muốn các tín đồ của Ngài tin tưởng trong mù quáng. 
				Ngài muốn chúng sinh phải biết suy nghĩ và thấu biết. Phật giáo 
				là con đường cao thượng cho đời sống mà nơi đó, nhân đạo, bình 
				đẳng, công bằng và an lạc chiếm vị trí tối thượng. Đức Phật phủ 
				nhận có đấng Phạm thiên, Thượng đế vì chỉ có ta mới chính là 
				Thượng đế của chính mình và chỉ có ta mới có thể tự lèo lái con 
				thuyền định mệnh của mình được. Đức Phật không dạy phải cầu 
				nguyện và sùng bái Ngài để được Ngài tha thứ cho các tội lỗi. 
				Thanh tịnh hay ô nhiễm trong tư tưởng của chúng sinh tùy thuộc 
				nơi chúng sinh. Không một đấng thiêng liêng, Phật hay một tha 
				nhân nào có thể làm ô nhiễm hay thanh tịnh tư tưởng của người 
				khác được. Ngay cả Niết bàn là hạnh phúc tuyệt đối cũng thế, khi 
				chúng sinh tự mình quét sạch được những dục vọng, luyến ái và vị 
				kỷ thì chính họ sẽ nghiệm chứng sự an lạc tịch diệt của Niết bàn 
				chớ Niết bàn không phải do Như Lai ban tặng được. 
				 
				Một ngày nọ, Đức Phật thấy những người Jalita lặn lội dưới nước 
				trong khi tuyết xuống liên tiếp trong 7 ngày đêm để tế thần lửa 
				tại bờ sông Gaya, Đức Thế Tôn dạy rằng: 
				 
				“Sự trong sạch do rửa bằng nước không bao giờ có. Người nào tắm 
				trong giòng nước Chân thật và thiện pháp thì người đó mới là 
				người trong sạch”. 
				 
				Đức Phật đã khẳng định rằng tất cả các thứ nước trên thế gian 
				này kể cả nước thánh thì không có thứ nước nào rửa sạch được 
				lòng hung ác để trở thành tâm lương thiện. Chỉ có chân lý Tứ 
				Diệu đế và Thánh pháp mới làm cho con người trở nên trong sạch, 
				trở thành Thánh nhân. Đó chính là nước vô hình rửa được vô minh 
				phiền não trong tâm của chúng sinh. 
				 
				Một hôm khác, Đức Phật đang thuyết pháp, có vị Bà la môn tên là 
				Sudarika bạch với Phật rằng : 
				 
				- Bạch Đức Thế Tôn! Ngài có đến con sông Bahuka để tắm không? 
				 
				- Này, Thầy Bà la môn! Con sông đó có gì đặc biệt? 
				 
				- Thưa Thầy Cồ Đàm! Con sông Bahuka là nơi mà mọi người cho đó 
				là giòng sông Phước nên hàng ngày biết bao người đến tắm để rửa 
				tội. 
				 
				Bây giờ Thế Tôn mới dạy : 
				 
				- Người thiếu trí, tạo ác nghiệp cho dù có đến tắm những giòng 
				sông Bahuka, sông Gaya, sông Sarassati, sông Payaya và sông 
				Bahumati thì những con sông ấy không thể làm cho người ác hết 
				tội. Người đã tạo ác nghiệp thì không có giòng sông nào làm cho 
				họ trong sạch được. 
				 
				- Này Thầy Bà la môn! Thầy nên tắm, rửa tội thứ nước mà Như Lai 
				đã dạy là: người không nói dối, không làm hại chúng sinh khác, 
				không nên lấy của người, không nên bỏn xẻn keo kiệt. Ngược lại, 
				tuy Thầy có đi đến con sông Gaya và uống nước ấy cũng không ích 
				lợi gì cho Thầy”. 
				 
				Do đó sự rửa tội và sự đưa chúng sinh lên thiên đàng không hề 
				bao giờ có trong đạo Phật và chính Đức Phật đã phủ nhận nói rằng 
				Ngài có oai lực đưa người đi được đến Thiên đàng, Cực Lạc. Vì 
				vậy mà đạo Phật mới gọi là đạo Tự giác. Đức Phật là đấng đã thức 
				tỉnh trong giấc mộng vô minh và lời dạy của Ngài kêu gọi chúng 
				sinh nên thức tỉnh nghĩa là Phật dạy chúng sinh phải tự mình tu 
				và cố gắng giải thoát lấy mình chớ đừng mong đợi Phật có oai lực 
				cứu độ mình. Nói cách khác, người muốn no hãy tự ăn lấy mới no, 
				kẻ khác không thể ăn cho mình no được. 
				 
				Vì thế bất cứ ai cũng có thể đứng trước Đức Phật trong tư thế 
				một người có phẩm cách chớ không phải trong tư thế một người cầu 
				khẩn, van xin. 
				 
				Hãy lắng nghe lời phát biểu của giáo sư Lakshmi Nasara viết 
				trong cuốn “Tinh Hoa của Phật giáo”: 
				 
				- Chỉ nói về Phật giáo thôi, ta có thể xác nhận là tôn giáo này 
				thoát khỏi tất cả cuồng tín. Phật giáo nhằm tạo trong mỗi cá 
				nhân một sự chuyển hóa nội tâm bằng cách tự chiến thắng lấy 
				mình. 
				 
				Từ xưa đến nay, lý trí và đức tin luôn chống đối với nhau. Lý 
				trí thì dùng lý luận và suy tư phát xuất từ kinh nghiệm và nhận 
				xét, trong khi đức tin nằm trong phạm vi tình cảm, không thể suy 
				luận, suy xét hay giảng giải được. Do đó những tôn giáo thần 
				khải thì đức tin là thượng đế cảm nhận bằng trái tim, không phải 
				bằng lý trí. Tình thương phát xuất bằng trái tim thì dựa vào 
				tình cảm nên rất thăng trầm vì thế nó có lúc đúng, có lúc sai, 
				có lúc thương có lúc ghét. Ngược lại lòng từ bi phát xuất từ trí 
				tuệ sáng suốt thì dựa theo tinh thần khách quan bình đẳng, không 
				thiên vị. Thêm nữa, đối với những tôn giáo thần khải thì thần 
				thông, phép lạ là quan trọng. Ngược lại Đức Phật coi đó là không 
				đáng kể và không thích đáng bởi vì điều quan trọng nhất vẫn là 
				bồi dưỡng trí tuệ để có giải thoát giác ngộ. Đối với đạo Phật, 
				những người có phép lạ không nhất thiết là bậc giác ngộ hay các 
				bậc Thánh cho nên theo Đức Phật, thần thông phép lạ cao siêu 
				nhất và huyền diệu nhất phải là làm sao biến một người ngu si 
				thành một người khôn ngoan, trí tuệ. 
				 
				Vậy đạo Phật có phải là một tôn giáo không? 
				 
				Dựa theo lời giải thích của học giả H. G Wells thì tôn giáo là 
				trung tâm của giáo dục xác định luân lý phẩm hạnh của con người. 
				 
				Triết gia Aldous Huxley định nghĩa tôn giáo như sau: 
				 
				- Tôn giáo là một hệ thống giáo dục, bằng các phương tiện con 
				người có thể tự mình huấn luyện cho mình. Trước hết là thay đổi 
				cái mình mong muốn cho đúng với nhân cách của mình trong xã hội. 
				Thứ hai là nâng cao lương tri và thiết lập quan hệ giữa con 
				người và vũ trụ mà họ là một thành phần trong đó. 
				 
				Thông thường tôn giáo luôn đi đôi với tín ngưỡng vì thế tất cả 
				những tôn giáo trên thế giới đều tin tưởng đấng thần linh này, 
				đấng cứu rỗi nọ, ông trời mình và ông trời người. Duy chỉ có 
				Phật giáo là không tin vào thần linh, không tin vào thượng đế, 
				không tin vào ai cả mà chỉ tin vào khả năng tự mình có thể giải 
				thoát ra khởi mọi hệ lụy của phiền não vô minh cho chính mình mà 
				Đức Phật là người dẫn đường, là bậc toàn giác. 
				 
				Đạo Phật khai mở một hệ tư tưởng triết học rất thâm thâu huyền 
				diệu dựa vào tư tưởng tánh Không (Bát nhã) để dẫn dắt chúng sinh 
				quán triệt thật tướng của vạn pháp chớ không nhất thiết chỉ thấy 
				biết vạn pháp qua thế giới hiện tượng. Những lời dạy thâm sâu 
				của Đức Phật để đưa tâm quy về một trạng thái tinh thần tĩnh lự 
				và sáng suốt được nhiều người cho đó là tôn giáo, người khác lại 
				cho là triết học hay tâm lý trị liệu. Vì vậy, khi đề cập đến thế 
				giới bản thể và hiện tượng là một vấn đề rất quan trọng, một vấn 
				đề mang tính triết học sâu xa, nếu con người nhìn nó qua lăng 
				kính của triết học. 
				Nhưng đối với Phật giáo, 
				cho dù con người có gọi nó là tôn giáo, nền giáo dục, môn triết 
				học hay là gì đi chăng nữa thì điều đó chẳng có giá trị thêm bớt 
				gì vì lý luận là còn nằm trong vòng lẩn quẩn của Nhị nguyên, của 
				thế giới tương đối có sinh có diệt. Mà điều quan trọng hơn hết 
				là những lời thuyết pháp của Đức Phật nhằm nói lên chân lý khách 
				quan, nói lên cái nguyên thủy của sự hình thành và sự tồn tại 
				khách quan của vũ trụ vạn hữu. Nhưng cho dù con người có lý luận 
				dựa theo bất cứ khía cạnh, phương diện nào thì có một điều chắc 
				chắn mà mọi người đều đồng ý rằng Đức Phật không phải là đấng 
				thần linh, đấng cứu rỗi mà Ngài chỉ là đấng toàn giác, là bậc 
				thầy vĩ đại mà thôi. 
				 
				Vì vậy, đạo Phật có thể được gọi là một tôn giáo không có tín 
				ngưỡng. Tại sao lại không có tín ngưỡng? Bởi vì đạo Phật là con 
				đường giúp chúng sinh tự mình thể nghiệm chân lý để có giải 
				thoát giác ngộ mà không tin có một đấng Thượng đế, một đấng thần 
				linh nào đó có thể ban vui cứu khổ hay cứu rỗi cho họ được. Mà 
				muốn đạt đến cứu cánh tột đỉnh này, người đệ tử Phật bắt buộc 
				phải có niềm tin. Nhưng niềm tin ở đây là tin vào lời dạy chân 
				thật của Đức Phật là người đã thực chứng những chân lý nhiệm mầu 
				bởi vì lời dạy của Phật là: “Như Lai thị chơn ngữ giả, thật ngữ 
				giả, bất dị ngữ giả, bất cuống ngữ giả” nghĩa là lời nói của 
				Phật là chân chính, là thành thật, không tráo trở và không bao 
				giờ dối trá. Quan trọng hơn là người đệ tử Phật phải tin chính 
				mình có khả năng hóa giải, diệt trừ mọi vô minh phiền não để đạt 
				được tâm thanh tịnh mà có Niết bàn, có Bồ-đề cũng như chư Phật, 
				chư Bồ-tát vậy. Đức Phật dạy chúng sinh phát triển những tiềm 
				năng và nỗ lực của chính bản thân mình để đạt đến trạng thái an 
				lạc và hạnh phúc tuyệt đối Niết bàn. Do đó hạnh phúc hay khổ đau 
				là do nơi con người chớ không tùy thuộc vào một đấng quyền năng 
				tuyệt đối nào và Đức Phật chỉ là một bậc thầy hướng đạo. Đức 
				Phật đã trải qua bao nhiêu khổ ải và đau đớn để đạt đến an lạc, 
				thanh tịnh Niết bàn vì thế Ngài chính là biểu tượng của An lạc, 
				Từ bi  và Trí tuệ. 
				 
				Vậy người đệ tử Phật phải có những đức tin gì? 
				 
				1) Tín tự: tức là tin ở trong ta, chính mình có khả năng tu 
				thành Phật nhưng vì bị vô minh che lấp nên vẫn còn sống trong 
				điên đảo khổ đau. 
				 
				2) Tín tha: không có nghĩa là tin vào tha 
				lực của chư Phật để được cứu giúp hoặc được vãng sanh về thế 
				giới cực lạc mà chính mình không chịu lo tu sửa, hóa giải phiền 
				não vô minh. Đây là hoàn toàn trái ngược với luật nhân quả của 
				Phật giáo. Tín tha ở đây là tin vào lời dạy chân thật của Phật 
				vì đây chính là con đường, là ánh sáng huyền diệu giúp chúng 
				sinh hóa giải tất cả những vô minh phiền não trong cuộc sống 
				này. Vì Phật là người đã giác ngộ trước, là người chỉ đường nên 
				chúng sinh nếu không tin vào lời Đức Phật thì làm sao nương theo 
				con đường mà Phật đã đi để có thể chứng đắc được chân lý mà có 
				được giải thoát giác ngộ như Phật. Nếu chính mình không hóa giải 
				hết phiền não vô minh, cho dù Phật A Di Đà có rước về tây phương 
				cực lạc thì tự mình cũng không có thanh tịnh cực lạc được. Vì 
				thế kinh Duy Ma Cật đã khẳng định là: “Tùy kỳ tâm tịnh, tắc Phật 
				độ tịnh” nghĩa là hễ tâm mình được an vui thanh tịnh thì thế 
				giới mình đang sống sẽ chính là thế giới cực lạc vậy. 
				 
				3) Tín Nhân, Tín Quả: Ngoài tín tự, tín tha, trọng tâm của đạo 
				Phật vẫn là tín nhân tín quả. Con người phải tin chắc rằng hễ 
				mình gieo nhân gì thì chính mình sẽ nhận lấy quả báo của nó. Nên 
				nhớ rằng không có một tha nhân nào trên thế gian này có thể thay 
				nhân đổi quả của người khác được mà chỉ có mình mới lèo lái con 
				thuyền định mệnh của chính mình mà thôi. Con người không cần 
				phải cầu nguyện, van xin để chư Phật độ cái này, thưởng cái kia 
				vì có van xin cầu nguyện cũng không bao giờ được, bởi vì nó đi 
				ngược với luật nhân quả. Nhưng nếu chúng sinh muốn biết cuộc 
				sống mình sẽ ra sao thì chỉ cần nhìn kỷ vào tất cả những nhân 
				thiện ác mà chính mình đã tạo tác thì chắc chắn sẽ biết mình sẽ 
				được thọ báo những hạnh phúc hay khổ đau. Muốn có cuộc sống hạnh 
				phúc yên vui thì nên gieo nhân lành, ngược lại gieo nhân bất 
				thiện thì phải chịu cảnh khổ đau, bất toại nguyện, thế thôi. 
				 
				Ngày nay có rất nhiều đệ tử Phật vẫn còn nhầm lẫn về hai chữ: 
				“Phật độ”. Phật độ không có nghĩa là mình cầu nguyện, van vái 
				điều gì thì Phật độ, Phật ban cho điều ấy. Mà Phật độ ở đây 
				chính là Phật chỉ dạy cho chúng sinh con đường giải thoát giác 
				ngộ để tự mỗi chúng sinh tùy theo bổn nguyện, căn cơ và hoàn 
				cảnh của chính mình mà tự mình hóa giải những hệ lụy của phiền 
				não vô minh. Có bớt được một phần phiền não vô minh thì có được 
				một phần Bồ-đề Niết bàn. Do đó Phật độ là Phật giúp cho chúng 
				sinh phương tiện tức là kinh điển, nhưng chính chúng sinh phải 
				tự mình chèo, lái, thực hành và sống với chánh pháp thì mới có 
				giải thoát, an vui và tự tại. Ngược lại nếu chúng sinh ngồi 
				thiền, tụng kinh, niệm Phật, trì chú, van vái, cầu nguyện mà tự 
				mình không chịu lo tu sửa, tánh tham tật đố không chừa, tâm còn 
				giận còn hờn, lòng còn chạy theo si mê ái dục thì đây chỉ là tu 
				hành theo hình thức, không có một ý nghĩa hay giá trị nào hết. 
				Ngày xưa khi tôn giả Mục 
				Kiền Liên cầu khẩn và bạch với Phật xin thương xót cứu vớt mẹ 
				Ngài là bà Thanh Đề ra khỏi địa ngục A Tỳ. Tại sao Phật không 
				làm phép, bắt ấn tam muội để bọn quỷ sứ ma vương thả bà Thanh Đề 
				về? Không phải là Phật không làm được, nhưng Ngài không làm vì 
				đây hoàn toàn trái với luật nhân quả. Nếu bà Thanh Đề đã gieo 
				những nhân bất thiện thì chỉ có bà phải tự mình ăn năn sám hối 
				để chuyển cái tâm tội lỗi xấu xa thành cái tâm thuần lương tươi 
				sáng. Có như thế thì chính bà tự bẻ gãy gông cùm nơi địa ngục mà 
				hóa sanh về cảnh thiên đường an lạc. 
				Chẳng những Phật giáo phủ 
				nhận Thượng đế mà Phật giáo cũng  không chấp nhận Diêm 
				vương là người có quyền phán xét tội hồn trong cõi âm. Khi nói 
				về cõi âm, hai quyển “Hồi dương nhân quả” và “Ngọc lịch minh 
				kinh”  không phải là kinh sách của Phật giáo vì nó diễn tả 
				một câu chuyện xảy ra ở Trung Hoa của hai người trùng tên nhưng 
				khác họ, bị quỷ bắt lầm rồi sau đó trả hồn về thế gian. Thật ra 
				ông Diêm vương mà người thế gian thường nhắc đến không phải phát 
				xuất từ Phật giáo mà nó đã xuất hiện rất lâu trong những kinh 
				sách Vệ Đà của Ấn Độ. Vì thờ đa thần nên họ nghĩ rằng trên trời 
				thì có thiên thần, ở giữa hư không có hư không thần và trong đất 
				cũng có địa thần… Vì thế người Trung Hoa mới sao lại những vị 
				Diêm Vương cai quản 18 tầng địa ngục. Nhưng trong thế gian có 
				biết bao giống dân như Việt Nam, Thái Lan, Miến Điện, Ấn Độ, Hoa 
				Kỳ, Anh, Pháp, Gia Nã Đại… thế thì tại sao ông Diêm vương phải 
				lại là người Trung Hoa? Phải ăn mặc giống như cải lương, hát bội 
				vậy? 
				Đây phải chăng là do óc 
				tưởng tượng của người Trung Hoa bày vẽ ra? Thật sự nếu có vị 
				Diêm vương cai quản cõi âm thì tội hồn cũng có cách hối lộ để 
				được giảm tội hình. Nhưng dựa theo Phật giáo, địa ngục không 
				phải là nơi giam giữ tội hồn đời đời như nhiều người thường 
				nghĩ. Những hình ảnh ma vương, quỷ sứ đầu trâu mặt ngựa cùng 
				những khổ hình nơi 18 tầng địa ngục chính là sự phóng rọi, biến 
				hiện và trói buộc của Nghiệp cảm mà thôi. Vì vậy, mỗi chúng sinh 
				đều có một ngài Diêm vương nơi tâm mình mà họ không tự biết, đó 
				là tiếng nói mãnh liệt của Chơn tâm, Phật tánh và là sự phán xét 
				sau cùng của Chí thiện. 
				 
				Cũng như Ngài A Nan, cả đời theo chân làm thị giả cho Đức Phật, 
				được Phật khen tặng là đệ nhất đa văn mà tại sao không thành A 
				La Hán trong lúc Đức Phật còn sinh tiền? Không lẽ Phật không 
				thương xót độ cho A Nan thành Thánh? Tất cả những gì Phật độ cho 
				A Nan hay cho tất cả chúng sinh thì Phật đã độ rồi. Đó là Phật 
				đã thuyết 12 bộ đại tạng kinh để giúp chúng sinh tự mình thể 
				nghiệm chân lý. Ông A Nan vì tánh ỷ lại là em và là thị giả của 
				Phật nên không chịu lo tu chứng mà chỉ muốn học rộng biết nhiều 
				vì thế  tuy A Nan là người thân cận Đức Phật nhất mà Phật 
				có độ cho A Nan thành A La Hán được đâu! 
				Do đó sau khi Đức Phật nhập 
				diệt, ông thất vọng, sống trong chán chường đau khổ nên có ý 
				định quyên sinh. Nhưng khi nhớ lại những lời dạy của Thế Tôn làm 
				ông thức tỉnh nên thành tâm sám hối tất cả những việc bất thiện 
				mà ông đã đối xử với Đức Phật trước kia. Khi tâm đã hoàn toàn 
				trong sáng thanh tịnh nên chỉ ngồi thiền một đêm mà ông đạt 
				thành thánh quả. Sự huyền diệu nhiệm mầu của đạo Phật là chúng 
				sinh có thể chuyển “cái tâm” của mình. Nếu tâm cứng ngắc, có tu 
				hay không cũng vậy thì không cách nào con người có thể chuyển từ 
				phàm thành thánh. Vì tâm có thể chuyển được nên ông A Nan mới tu 
				thành A la hán hay Thái tử Tất Đạt Đa mới tu thành Phật được. 
				Câu chuyện của tôn giả A Nan ở trên đã được ghi lại trong Luận 
				Đại Trí Độ như sau: 
				 
				Ba tháng sau ngày Đức Phật nhập diệt, tôn giả Đại Ca Diếp quy tụ 
				1000 vị đại A La Hán và cuối cùng chỉ chọn 500 vị để kết tập 
				kinh điển lần thứ nhất trong núi Kỳ Xà Quật, thành Vương Xá. Ông 
				Đại Ca Diếp vào thiền định, rồi dùng Thiên nhãn quán trong đại 
				chúng ai là người chưa sạch hết phiền não (chưa chứng thánh quả 
				A la hán) thì phải mời ra khỏi đại hội. Trong số 1000 người chỉ 
				mình A Nan là chưa thanh tịnh, nên Đại Ca Diếp lấy tay dắt A Nan 
				ra khỏi chúng và nói rằng: 
				 
				- Nay ở trong chúng thanh tịnh kết tập Kinh tạng, ông chưa sạch 
				kiết sử (còn phiền não) không nên ở đây. 
				 
				Bấy giờ A Nan hổ thẹn buồn khóc, tự nghĩ: “Ta hai mươi bảy năm 
				theo hầu hạ Thế Tôn, gần gũi chăm sót Ngài, chưa bao giờ bị khổ 
				não như thế này”. 
				Thấy thế tôn giả Đại Ca Diếp nói tiếp : 
				 
				- Tội của ông là ý Phật không muốn cho người nữ xuất gia, vì ông 
				ân cần khuyên thỉnh, Phật mới cho họ xuất gia, vì lẽ đó mà Chánh 
				pháp của Phật chỉ năm trăm năm là suy giảm. Đó là tội 
				Đột-kiết-la (Dunkrta) của ông. 
				 
				A Nan thưa: 
				 
				- Tôi thương xót bà Cù-đàm-di. Lại nữa, theo pháp của chư Phật 
				ba đời đều có bốn bộ chúng (Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, thiện nam và 
				tín nữ), tại sao đức Thích Ca lại không có? 
				Đại Ca Diếp nói: 
				 
				- Khi Phật sắp nhập diệt gần thành Câu thi na, Ngài đau lưng nên 
				cần trải bốn lớp y Âu-đa-la-tăng để nằm và nói với ông “Ta 
				cần nước” mà ông dửng dưng không đi lấy. Đó là tội Đột-kiết-la 
				của ông. 
				A Nan đáp: 
				 
				- Khi đó có trên năm trăm cỗ xe băng dòng lội qua làm nước vẫn 
				đục vì thế nên tôi không lấy. 
				Đại Ca Diếp nói tiếp: 
				 
				- Dẫu nước bị đục, thân lực của Phật có thể làm nước đục biến 
				thành nước trong, sao ông không lấy? Đó là tội Đột-kiết-la của 
				ông. Ông hãy sám hối đi. 
				Đại Ca Diếp lại nói: 
				 
				- Phật đã dạy: “Nếu người khéo tu tập bốn thần túc thì có thể 
				sống thêm hay giảm một kiếp đều được” mà sao ông lại làm thinh 
				không thưa lại. Phật hỏi đến ba lần, ông vẫn làm thinh. Nếu ông 
				thưa với Phật là Phật khéo tu bốn thần túc thì Ngài nên sống một 
				kiếp hay non một kiếp. Do sự lặng thinh của ông mà Thế Tôn mới 
				nhập diệt. Đó là tội Đột-kiết-la của ông. 
				 
				A Nan đáp: 
				 
				- Ma che lấp tâm tôi nên không nói được chớ không phải tôi có ác 
				tâm mà không thưa với Phật. 
				 
				Đại Ca Diếp lại nói: 
				 
				- Ông xếp y Tăng-già-lê của Phật mà lấy chân đạp lên. Đó là tội 
				Đột-kiết-la của ông. 
				 
				A Nan giải thích: 
				 
				- Khi ấy có gió lớn nổi lên mà không ai giúp tôi cầm y nên gió 
				thổi làm y rớt xuống chân tôi chớ không phải tôi không cung kính 
				mà giẫm lên y Phật. 
				 
				Đại Ca Diếp nói: 
				 
				- Sau khi Phật nhập diệt, ông bày tướng Mã âm tàng của Phật (bộ 
				phận đàn ông) cho người nữ xem sao không biết xấu. Đó là tội 
				Đột-kiết-la của ông. 
				 
				A Nan đáp lại: 
				 
				- Khi ấy tôi suy nghĩ: Nếu các người nữ thấy tướng Mã âm tàng 
				của Phật, chắc họ tự xấu hổ thân hình nữ nhân nên mong muốn được 
				thân nam tử, tu hành Phật tướng, gieo gốc phước đức. Vì thế mà 
				tôi cho người nữ xem chớ không phải không biết xấu mà cố tâm phá 
				giới. 
				Đại Ca Diếp nói: 
				  
				- Ông có sáu tội Đột-kiết-la như vậy nên phải sám hối giữa Tăng 
				chúng . 
				 
				A Nan xin vâng theo lời của Trưỡng lão Đại Ca Diếp mà quỳ thẳng 
				chấp tay, bày vai áo bên phải và sám hối sáu tội Đột-kiết-la. 
				 
				A Nan bị tôn giả Đại Ca Diếp đuổi ra ngoài không cho tham dự đại 
				hội nên rầu rĩ khóc lóc chứng tỏ lúc bấy giờ tâm A Nan là tâm 
				phàm nhân tức là thức tâm vì vẫn còn duyên với ngoại trần nên 
				còn buồn còn khổ. Tuy khóc than không phải là hành động của bậc 
				thánh, nhưng nó cũng làm diệu phần nào những cơn đau trong tâm 
				cho nên ngay trong đêm đó, A Nan thức tỉnh bèn tọa thiền, kinh 
				hành, tư duy các pháp, ân cần cầu đạo. Tuy A Nan có nhiều trí 
				tuệ, nhưng ngặc nổi kém định lực nên không phá nổi phiền não 
				chướng mà chưa thành thánh giả. Cuối đêm sắp hết, mệt quá muốn 
				nghỉ, nên vừa nằm xuống đầu chưa chạm gối thì bỗng nhiên A Nan 
				tỏ ngộ, như tia sáng lóe lên khiến Ngài nhập định Kim Cang mà 
				phá tất cả các núi phiền não, chứng được tam minh thần thông 
				biến hóa và trở thành A la hán. Ngay đêm đó, A Nan đi đến nhà 
				Tăng gõ cửa gọi thì Đại Ca Diếp hỏi: 
				 
				- Ai gõ cửa đó?. 
				 
				A Nan thưa: 
				 
				- Tôi đêm nay đã dứt hết các lậu. 
				 
				Đại Ca Diếp nói: 
				 
				- Không mở cửa! Ông cứ theo lỗ khóa mà vào. 
				 
				A Nan liền dùng Thần lực theo lỗ khóa mà vào, lạy dưới chân Tăng 
				chúng mà sám hối. 
				 
				Đoạn kinh trên chứng minh một cách hùng hồn rằng Phật chỉ là 
				người chỉ đường còn đi hay không là do chúng sinh cho nên không 
				có vấn đề cầu nguyện, van xin, vái lạy để thỏa mãn những dục 
				tính vị kỷ của con người trong đạo Phật. Vì thế mà trong Tứ Thập 
				Nhị Chương Kinh (Kinh Bốn Mươi Hai Chương) Đức Phật đã dạy rằng: 
				“Đệ tử tuy xa ta nghìn dậm, mà luôn nghĩ đến và thực hành giới 
				pháp của ta thì chắc chắn sẽ chứng được đạo quả. Ngược lại, kẻ ở 
				gần bên ta, tuy thường gặp mà không thực hành theo giới pháp của 
				ta, cuối cùng vẫn không chứng được đạo”. 
				 
				Do đó đối với đạo Phật, vô tâm tức là buông xả mới là cứu cánh 
				tối thượng cho nên người xưa cũng có câu: “Vô tâm đạo nhân” 
				nghĩa là người vô tâm mới là người chân tu. Ngược lại người có 
				trí thức nhạy bén, học rộng hiểu nhiều là những người khó đạt 
				được chân lý vì tâm họ chất đầy ý thức đối đãi phân biệt. Ví 
				cũng như hành giả ngồi trên thuyền, nếu học rộng biết nhiều thì 
				chẳng khác nào chở cả kho tàng kinh điển nặng nề trên một chiếc 
				thuyền nan. Chẳng những không đến được bờ giác ngộ mà cả người 
				lẫn thuyền cùng chìm vào biển trầm luân sinh tử. 
				 
				4) Tín Sự, Tín Lý: Ngoài ra đạo Phật còn dạy tín sự, tín lý. Đó 
				là: 
				 
				Chư ác mạc tác 
				Chúng thiện phụng hành 
				Tự tịnh kỳ ý 
				Thị chư Phật giáo 
				 
				Nghĩa là tất cả những việc ác chớ có làm, ngay cả những việc ác 
				nhỏ. Chúng sinh nên làm tất cả những việc thiện cho dù đó là một 
				việc thiện nhỏ. Nhiều việc thiện nhỏ sẽ thành việc thiện lớn và 
				những việc ác nhỏ sẽ cộng lại thành đại ác. Cố giữ tâm ý thanh 
				cao thanh tịnh thì nội tâm sẽ trong sáng. Đây chính là lời dạy 
				của chư Phật. 
				 
				Theo tinh thần tin tưởng đó, đức tin của người Phật tử không đi 
				ngược lại với lý trí và còn đóng một vai trò quan trọng trên con 
				đường giải thoát giác ngộ bằng cánh mang lại nghị lực cho sự 
				tinh tấn, kiên trì tu tập. Không có lòng tin lôi kéo, thúc đẩy, 
				con người sẽ trì trệ, buông lơi và có thể chùn bước trước những 
				khó khăn, thử thách của cuộc đời. Nhưng mê tín và cuồng tín cũng 
				không có chỗ đứng trong đạo Phật bởi vì đạo Phật là con đường 
				của trí tuệ, của sự phá bỏ vô minh. Mà vô minh chính là cội 
				nguồn của mê tín và cuồng tín tức là lòng tin lầm lạc dẫn tới 
				khổ đau. 
				 
				Ngày nay Phật giáo trên thế giới gồm có Nam tông, Bắc tông và 
				Mật tông, vậy đức tin của họ như thế nào? 
				 
				a) Đức tin đối với Phật giáo Nam tông, Nguyên thủy hay Tiểu 
				thừa: Nhìn lại những thế kỷ sau khi Đức Phật nhập diệt, tinh 
				thần sùng tín bằng những hình thức nghi lễ, sùng bái của một tôn 
				giáo tiếp tục bành trướng trong dân gian làm ảnh hưởng rất lớn 
				cho sự tiến hóa của đạo Phật. Ngay sau khi Đức Phật nhập diệt 
				tại thành Câu thi Na, các vua chúa những quốc gia lân cận kéo 
				binh mã tới tranh dành những di tích hoại thể của Đức Phật, như 
				những viên xá lợi, răng, tóc để đem về thờ phượng tại nước họ. 
				Thật ra sự sùng bái những di tích này hoàn toàn đi ngược lại với 
				lời dặn của Đức Thế Tôn. Trước khi nhập diệt, Đức Phật có dạy 
				rằng: 
				 
				“Sau khi Thế Tôn nhập diệt, điều mà các con phải giữ gìn là 
				Chánh pháp. Chính chánh pháp sẽ thay thế ta trên cõi đời này. 
				Hãy giữ gìn lấy Chánh pháp”. 
				 
				Đáng tiếc thay, phàm phu nhìn Chánh pháp như là một cái gì quá 
				trừu tượng để có thể nương tựa vào. Trong khi một viên xá lợi, 
				một ngón tay, một chân răng, một ngọn tóc dù không phải là của 
				Đức Phật đi chăng nữa, cũng làm tăng trưởng sự sùng bái của con 
				người. Ngày nay những nước theo Nam tông như Tích Lan, Thái Lan, 
				Miến Điện, Lào, Kampuchia… đã thần thánh hóa Đức Phật. Người 
				Phật tử ở những xứ này tôn thờ, thành khẩn, cầu xin thì đủ thấy 
				tinh thần sùng tín của họ mạnh mẽ như thế nào. 
				 
				b) Đức tin đối với Phật giáo Đại thừa: Đặc điểm của Đại thừa là 
				tôn thờ chư Phật và chư Bồ-tát. Từ bi hỉ xã, vì người quên mình 
				là những hạnh nguyện Bồ-tát đạo được khuyến khích nhiều nhất 
				trong các kinh điển đại thừa. Đại thừa có nhiều tông phái cho 
				nên niềm tin cũng tùy theo tông phái mà đổi thay. 
				 
				- Thứ nhất đối với Thiền tông thì đức tin không phải là một điều 
				quan trọng vì không có gì để tin. Dựa vào tư tưởng Bát Nhã thì 
				vạn pháp giai không duyên sanh như huyễn nên trên thế gian này 
				có cái gì là thật đâu mà phải quan tâm bận lòng. Người tu thiền 
				chỉ cần tin tưởng vào những lời dạy của Phật và khả năng giác 
				ngộ của chính mình tức là tự lực. Bởi vì vạn pháp duy tâm nghĩa 
				là tâm này là chủ, tâm này là Phật, tâm này là tất cả cho nên 
				chúng sinh chỉ cần quay về hồi quang phản chiếu mà sống trọn vẹn 
				với Chơn tâm thì ngay nơi ấy chính là Cực lạc, là Niết bàn rồi. 
				Kinh điển hay pháp tu chỉ là phương tiện, là ngón tay mà chân lý 
				mới là cứu cánh. Lục tổ Huệ Năng cũng dạy thêm rằng: “Pháp này 
				phải đến trong tánh Phật mà cầu, chớ hướng ngoài thân mà cầu, tự 
				không có bổn tâm. Phải tự thấy bổn tâm, mê thì làm chúng sinh 
				còn giác tức là Phật”. 
				 
				- Thứ hai đối với Tịnh độ tông thì đức tin bây giờ là chính yếu. 
				Ngược với lối thực hành của thiền là “Không”, tịnh độ thì áp 
				dụng lối “Có”. Có ở đây là tin có Phật A Di Đà, có cảnh tây 
				phương cực lạc, có vãng sanh tức là có chư Phật hay chư Bồ-tát 
				đến dẫn dắt họ về thế giới Tây phương. Người tu theo tịnh độ 
				phải có niềm tin mãnh liệt vào những cái “Có” này để được tái 
				sinh về xứ Phật. Ngài Huệ Viễn vào đời Nam Tống ở Trung Hoa đã 
				khởi xướng tông phái Tịnh độ. Các vị tổ của tịnh độ quan niệm 
				rằng vào thời mạt pháp, người tu Phật không đủ khả năng để tự tu 
				giải thoát cho chính mình tức là “thiếu khả năng tự lực” nên họ 
				kêu gọi đến tha lực của Phật A Di Đà để Ngài cứu độ và truyền 
				sức mạnh vào mình. “Có” và “Không” là tùy theo lối nhìn dựa theo 
				thế giới hiện tượng hay bản thể vì nếu dựa theo sự Tướng bên 
				ngoài thì Có. Còn theo Bản Thể Chân Như thanh tịnh bên trong thì 
				tất cả đều là không. 
				Nhưng Tâm kinh dạy rằng: 
				“Sắc tức là Không và Không tức là Sắc” cho nên Có tức là Không 
				và Không chính là Có tuy hai nhưng mà một tức là Bất nhị. Nói 
				một cách khác Thiền là Tịnh và Tịnh tức là Thiền nghĩa là trong 
				Thiền có Tịnh và dĩ nhiên trong Tịnh đã có Thiền rồi. Thí dụ 
				niệm Phật để diệt trừ vọng tưởng trong tâm tức là thiền Chỉ 
				(Xa-ma-tha) nghĩa là tu Định. Quán tưởng Đức A Di Đà tức là 
				thiền Quán (tam-ma-bát-đề) nghĩa là tu quán hay tu trí tuệ. Khi 
				hợp hai lối tu lại với nhau thì gọi là Thiền Na tức là Chỉ-Quán 
				đồng tu hay Định-Tuệ song tu. Do đó “Có” hay “Không” chỉ là 
				phương tiện, là cách nói chứ  không phải là cứu cánh bởi vì 
				Chân Tánh thì chẳng phải có mà cũng chẳng phải không. (Trung 
				Quán Luận). 
				 
				Nếu nhìn vào một khía cạnh tâm lý thì đức tin của người Phật tử 
				tu theo tịnh độ không có vẻ gì khác biệt với đức tin của tín đồ 
				Thiên Chúa giáo hay Hồi giáo tức là đức tin hướng về Thượng đế, 
				chúa Giê-Su hay Allah. Vì có sự tương đồng này mà ngày nay những 
				quốc gia tân tiến tại Âu châu, Mỹ châu, ngay cả Úc châu nơi mà 
				Tịnh độ tông phát triển mạnh nhất trong cộng đồng người Trung 
				Hoa và số ít Việt Nam thì pháp môn Tịnh độ hầu như không lôi 
				cuốn được người dân bản xứ. Con người càng văn minh tân tiến thì 
				càng tin sâu vào luật nhân quả nghĩa là “người muốn no hãy tự 
				mình ăn lấy mới no, kẻ khác không thể ăn cho mình no được”. Do 
				đó nếu tin vào tha lực để có sự cứu rỗi thì họ cứ theo Tin lành, 
				Thiên Chúa giáo hay Hồi giáo chớ cần gì phải cải đạo. 
				Tín đồ Thiên Chúa chỉ cần 
				tin vào Thượng đế, làm vài điều thiện là được vào nước Thiên 
				đàng mà khỏi phải trường chay khổ cực, nhiếp trọn sáu căn và 
				phải tịnh niệm tương tục tức là ngày đêm chú tâm niệm Phật không 
				gián đoạn. Nhưng đối với người Tây phương thì họ muốn tìm hiểu, 
				nghiên cứu và thực hành những cái gì mới lạ, khác biệt, nằm 
				trong khả năng tự lực của con người chẳng những phù hợp với luật 
				nhân quả mà còn thích hợp với đà phát triển của văn minh khoa 
				học. Phải chăng tư tưởng “tự tu tự giác” là nguyên nhân khiến 
				thiền đại thừa ngay cả thiền minh sát, thiền tứ niệm xứ của Phật 
				giáo nam tông phát triển rất thịnh hành trong cộng đồng người 
				Tây phương? Họ cảm thấy thoải mái hơn khi thực hành thiền để tâm 
				được an tịnh nghĩa là chính họ tự lái chiếc xe định mệnh, tự 
				chèo con thuyền bát nhã để khai tâm mở tánh mà chứng nghiệm được 
				sự thanh tịnh tịch diệt của Niết bàn. 
				Người Tây phương khi nghiên 
				cứu đạo Phật, học cách tu thiền thì họ cảm thấy thoải mái, an 
				lành và hạnh phúc hơn là lúc họ còn tin ở những đấng thần linh. 
				Đạo Phật không thờ bất cứ vị thần linh nào mà họ chỉ tôn thờ 
				kính quý Đức Phật Thích Ca vì Ngài là bậc giác ngộ chân lý, nói 
				và sống đúng chân lý. Vì vậy nếu người đệ tử Phật biết nói đúng 
				chân lý, sống đúng chân lý thì có an vui, tự tại, Niết bàn cũng 
				như Phật.  Họ biết rằng cái thực tại tối hậu tức là trí tuệ 
				Bồ-đề và tịch diệt Niết bàn đã có sẵn trong họ chớ không cần tìm 
				kiếm ở đâu xa. Đó là bớt một phần phiền não thì có một phần Niết 
				bàn, bớt một chút vô minh thì tăng thêm một chút trí tuệ sáng 
				suốt. Niềm an vui hạnh phúc tự tại này không tìm thấy trong tôn 
				giáo của họ. Đây là một thử thách rất thực tế, thích đáng và 
				được đền bù bằng những kết quả tương xứng rất nhiệm mầu ngay bây 
				giờ mà không cần phải trông chờ mong đợi sự ban bố ân sủng do ai 
				hay ở đời sau. 
				Ngày xưa chính Đức Phật đã 
				đi sâu vào thiền định mà chứng được chân lý và tất cả các đệ tử 
				của Ngài cũng nhờ thiền định mà thành A la hán. Ông A Nan tuy là 
				đệ nhất đa văn, nổi tiếng học rộng biết nhiều mà có tâm ỷ lại, 
				không chịu tu thiền, không vào đại định nên cả đời không đạt 
				thành Thánh quả và phải chịu nạn dâm nữ Ma Đăng Già. Đối với 
				Phật giáo, tư tưởng chính là nguồn gốc của sự mê hoặc làm cho 
				tâm thức con người càng thêm mê muội và vọng tưởng chính là sản 
				phẩm của nó. Vì thế thiền định là phương pháp làm ngưng lại và 
				tiêu diệt những tư tưởng này. Do đó, một khi những làn sóng tư 
				tưởng khuấy động đã chấm dứt thì chúng sinh sẽ nhận thấy ánh 
				sáng mặt trăng chân lý lúc nào cũng chiếu sáng. Từ đây con người 
				sẽ nhận thấy rằng cuộc sống này rất thoải mái, bình an trong cái 
				tâm trạng đầy phúc lạc thanh thản an nhàn. 
				 
				Bây giờ nếu nhìn Tịnh độ bằng một khía cạnh tâm lý khác thì có 
				người lý luận rằng chúng sinh trong cõi Ta bà luôn lặn hụp, chìm 
				đắm trong biển sinh tử trầm luân và sống trong vô minh điên đảo 
				nên mới cần có Bồ-tát và Phật. Ngược lại trong cõi cực lạc, con 
				người hóa sinh từ hoa sen, muốn gì được nấy, khỏi cần làm ăn cực 
				khổ, muốn ăn gì thì thức ăn tự hiện ra, ăn xong khỏi cần rửa 
				dọn, thức ăn thức uống biến mất. Ngoài lầu vàng gác tía, áo quần 
				vật dụng hiện ra theo ý muốn và sống lâu vô lượng. Nói cách khác 
				trong cõi cực lạc, con người không còn biết khổ, sống quá sung 
				sướng thì đây chính là cực lạc Niết bàn rồi. Thế thì tu để làm 
				gì? Có khổ mới tìm Niết bàn, có vô minh mới cầu Bồ-đề. Không 
				biết tam khổ, bát khổ thì Tứ diệu đế dùng vào chỗ nào? Mình 
				không khổ, chúng sinh không khổ thì lấy gì làm cơ bản để tu Lục 
				độ vạn hạnh? Không khổ, không lo thì cần gì phải tu hành? Không 
				tu Tứ Diệu Đế và Lục Độ Vạn hạnh thì làm sao thành Phật được? 
				 
				Nhưng nếu nhìn sâu (thâm ý của Phật) thì tịnh và thiền đều có 
				chung một mục đích là cột tâm vào một chỗ. Tâm của con người 
				sinh diệt từng sát na (60 sát na là một giây) với biết bao ý 
				tưởng thay đổi không ngừng như tâm viên ý mã vì thế mà năng lực 
				trở thành yếu ớt kém cỏi. Nay dùng phương tiện như tham thiền 
				hay niệm Phật để cột tâm lại một chỗ, không còn tán loạn thì tâm 
				sẽ được tỉnh tức là có định và sáng suốt. Nếu chúng sinh niệm 
				danh hiệu Phật A Di Đà để dẹp trừ vọng tưởng, chấp trước thì mỗi 
				câu niệm sẽ quét sạch vọng tưởng làm tâm thanh tịnh. Ví như ngọn 
				đèn vốn sáng, nhưng vì gió lay động làm ánh sáng bị lu mờ. Nếu 
				bây giờ chụp cái bóng che gió vào thì ngọn đèn sẽ bừng sáng. Do 
				đó nếu chúng sinh suốt ngày trì niệm danh hiệu Phật A Di Đà, 
				biết chú tâm vào hồng danh này khi làm việc, lúc nghỉ ngơi cho 
				đến lúc nhất tâm bất loạn thì cái ảo ảnh nhị nguyên của vô minh, 
				cái tâm phân biệt, có chúng sinh có Phật sẽ chấm dứt và họ sẽ 
				chứng ngộ được chân lý nhiệm mầu ngay. Nên nhớ công phu nhất tâm 
				bất loạn của tịnh độ tức là thánh quả A la hán của thiền tông. 
				Vì thế cho dù con người có 
				gọi nó là tha lực tiếp dẫn của Đức A Di Đà, gọi là thiền, gọi là 
				mật, gọi là giáo thì có khác biệt gì đâu bởi vì chứng ngộ chân 
				lý thì không thể nói hay diễn tả bằng văn tự ngôn ngữ được. Cái 
				khả năng giải thoát mà con người cho rằng vốn ở bên ngoài tức là 
				tha lực thật ra vẫn ở bên trong tức là tự lực thì lúc nào vẫn 
				sẵn có ở trong ta. Đó chính là cái tự tánh thanh tịnh bản nhiên, 
				là Phật tánh vĩnh hằng trong tất cả mọi chúng sinh. Vì thế nếu 
				người tu trì công niệm Phật đến khi dứt sạch vọng tưởng và ngộ 
				nhập chơn tâm rồi thì Phật A Di Đà hay cảnh Tịnh độ cũng chỉ ở 
				nội tâm của mình hiện ra chớ không phải ở đâu xa. Bởi vậy kinh 
				Phật mới có câu: “Tự tánh Di Đà, duy tâm Tịnh độ” là vậy. 
				Niệm Phật đến chỗ nhất tâm 
				bất loạn thì mới được vãng sanh có nghĩa là niệm Phật đến chỗ vô 
				niệm nghĩa là niệm mà không còn biết mình đang niệm tức là tâm 
				ấy chính là tâm Phật rồi. Đó là: “Lục tự Di Đà vô biệt niệm” thì 
				mới có “Hoa khai kiến Phật ngộ vô sanh”. Hoa khai kiến Phật tức 
				là Minh Tâm Kiến Tánh và Ngộ Vô Sanh nghĩa là không còn sinh 
				không còn diệt tức là chứng được Vô sanh pháp nhẫn vậy. Như thế 
				thì tu thiền hay niệm Phật chỉ là những phương tiện, là những 
				cách nói, nhưng cứu cánh vẫn là một. Cho dù con người có gọi nó 
				là minh tâm kiến tánh, nhất tâm bất loạn hay gọi là gì đi chăng 
				nữa thì trong đạo Phật chỉ có một hương vị duy nhất là vị giải 
				thoát giác ngộ. Vì thế trong Tịnh Độ thi có câu: 
				 
				Ba phước thề tu, sáu niệm căn 
				Giữ gìn tam nghiệp sạch trong ngần 
				Một câu thánh hiệu không rời chán 
				Nguyện thấy Di Đà chứng pháp thân. 
				 
				Do đó nếu chúng sinh có thể lìa Sự Tướng mà nhập vào Bản Thể 
				Chân Như thì Niết bàn, Bồ đề tự hiển lộ. Đó là: “Tùy kỳ tâm 
				tịnh, tắc Phật độ tịnh” nghĩa là khi chúng sinh đã hoàn toàn có 
				tâm thanh tịnh thì thế giới họ đang sống chính là cõi tịnh độ 
				rồi. 
				 
				Có người thắc mắc rằng Tịnh độ đến Nhất tâm bất loạn, còn Thiền 
				tông đến chỗ nào? 
				 
				Không có đến chỗ nào hết. Cái mà con người gọi là Minh tâm kiến 
				tánh nghĩa là tâm mình cùng khắp không gian, vô bờ vô bến, chỗ 
				nào cũng là Thể của tâm mình cả. Đó là chơn tâm, Phật tánh cùng 
				khắp vậy. Tịnh độ tông mà người Trung Hoa còn gọi là Liên tông 
				là một trường phái được lưu hành rộng rãi tại Trung Hoa. Năm 
				402, Ngài Huệ Viễn (334-416) sống cùng thời với Pháp sư Cưu Ma 
				La Thập, thành lập Bạch Liên Xã, trong đó ông quy tụ một nhóm 
				123 người gồm Tăng sĩ và Cư sĩ tụ tập trước tượng A Di Đà và 
				nguyện vãng sinh về cõi Tây phương cực lạc. Dựa theo người Trung 
				Hoa, ông được xem là sơ tổ của Tịnh độ, nhưng thật ra khi nói về 
				pháp môn niệm Phật thì Đại Thế Chí Bồ Tát mới là sơ tổ của pháp 
				môn này. Sau đó có sư Đàm Loan (476-542) là người phát triển 
				tích cực và đem môn Tịnh độ đến với mọi người. Sư cho rằng vào 
				thời mạt pháp thì tự lực không còn đủ sức để giải thoát. Sư 
				không chấp nhận con đường gian khổ của những tông phái khác và 
				chỉ chấp nhận giải pháp “dễ dãi” là dựa vào tha lực của Phật A 
				Di Đà. Sư nghĩ rằng chúng sinh chỉ cần nhất tâm quán niệm danh 
				hiệu Phật A Di Đà là đủ để sanh về cõi cực lạc của Ngài. Đặc 
				tính của Tịnh độ là lòng tin nhiệt thành nơi Phật A Di Đà và sức 
				mạnh cứu độ của Ngài. 
				 
				Đức Phật Thích Ca đã khẳng định rằng Ngài chỉ là một đấng đạo 
				sư, chứ không phải là đấng cứu thế, đấng thần linh vì thế đạo 
				Phật là con đường giúp chúng sinh tự mình chứng ngộ chân lý, tự 
				mình có được giải thoát giác ngộ chứ Phật không cứu rỗi, độ cho 
				bất cứ ai. Bồ-đề, Niết bàn là do chúng sinh tự hóa giải hết vô 
				minh phiền não mà có chứ không phải do Phật, Bồ-tát ban tặng. 
				Bớt một phần vô minh thì có một phần Bồ-đề, hóa giải một phần 
				phiền não thì có một phần an lạc Niết bàn thế thôi. Đức Phật hy 
				sinh cả cuộc đời vương giả, không ngại dầm mưa giải nắng, cực 
				khổ gian lao để đi tìm chân lý. Đến khi thành đạo Ngài đã đem 
				ánh đạo vàng gieo khắp các nơi, đem nước từ bi rưới xuống cứu độ 
				chúng sinh để “lìa khổ được vui” không phân biệt là cung vua phủ 
				chúa hay mái tranh nghèo của người nông phu vì thế không có nơi 
				nào ở Ấn Độ mà không có dấu chân Phật. Nếu đây không phải là 
				“Tha lực Phật” đã gia bị cho chúng sinh thì là gì? Nhưng trong 
				Phật giáo không hề có việc ân sủng cứu rỗi vì nó đi ngược lại 
				với quy luật nhân quả phát triển khách quan của tất cả vạn hữu 
				trong vũ trụ. 
				 
				Trong Kinh A Hàm, có câu chuyện nàng Kisa Gotami như sau : 
				 
				Nàng Kisa Gotami có người con trai chẳng may bị rắn cắn chết. Vì 
				quá thương yêu đứa con yêu dấu của mình nên nàng Kisa không thể 
				chấp nhận cái chết. Nàng mang thi hài của con đến hết nhà này 
				tới nhà kia để tìm thuốc cứu chữa, nhưng không ai có thể giúp 
				nàng được. Cuối cùng nàng đến hầu Đức Phật. Đức Phật dạy rằng : 
				 
				- Nếu cô có thể đem cho ta một nắm tro (có sách viết là hạt 
				cải), ta sẽ giúp cô. Tuy nhiên, nắm tro ấy phải xuất phát từ 
				ngôi nhà trong đó không có người nào chết cả. 
				 
				Kisa đi đến mọi nhà trong thành phố. Khắp nơi mọi người đều 
				thương xót cho hoàn cảnh đau khổ của nàng nên ai cũng tặng nàng 
				nắm tro. Nhưng khi hỏi lại thì bất cứ gia đình nào cũng có người 
				chết. Đó là có khi anh em, cha mẹ, vợ chồng hay con cái như 
				nàng. Quá thất vọng, nàng trở về gặp Đức Phật với tay không. Đức 
				Phật nhìn người đàn bà đau khổ và hỏi: 
				 
				-  Ngươi đã tìm được nắm tro ấy không? 
				 
				- Ôi! Con ôm đứa con đã lạnh vào lòng và đi gỏ cửa từng nhà một 
				để xin thứ tro ấy. Tro thì không thiếu gì, nhưng không có nhà 
				nào không có người hoặc mới chết, hoặc chết đã lâu. Con mệt nhọc 
				mà vẫn không tìm ra nay nhờ Ngài chỉ dùm nhà nào có thứ tro mà 
				Ngài đã dạy để cứu con của con. 
				 
				Đức Phật đặt một tay trên vai Kisa như để trút cả một niềm 
				thương lên đó và nói bằng một giọng xót xa : 
				 
				- Kisa! Không có thứ tro đó đâu. Vì chết là một luật chung của 
				sinh vật trong vũ trụ này. Hôm qua ta bảo ngươi đi tìm thứ tro 
				ấy là cốt để cho ngươi nhận thấy rằng “Đã là con người thì phải 
				chịu cảnh sinh ly tử biệt”. Không ai có thể vượt thoát ra khỏi 
				luật vô thường cay nghiệt này. Hôm qua ngươi tưởng chỉ có một 
				mình ngươi đau đớn. Bây giờ ngươi đã hiểu rằng toàn thể nhân 
				loại đều chịu chung như thế cả. Cái đau đớn của ngươi chỉ là một 
				trong cái đau đớn của toàn thể nhân loại. Đây là một giọt nước 
				mắt trong  biển nước mắt mà thôi. Ngươi đừng nên than khóc 
				thái quá vì không thể nào thay đổi cái định luật khắc nghiệt 
				này. Nếu ta có thể cứu được con ngươi thì dầu cần đến máu xương 
				ta thì ta cũng không từ. 
				 
				Nàng Kisa cảm thấy được an ủi nên về sau nàng đến gặp Đức Phật, 
				trở thành đệ tử của Ngài và sau đó chứng thánh quả A la hán. 
				 
				Dựa vào câu chuyện trên, chính Đức Phật cũng không thể thay đổi 
				sinh mệnh của con người được bởi vì chân lý của đạo Phật là nhân 
				nào thì quả nấy và chỉ có ta mới có thể thay đổi cuộc đời và 
				định mệnh của ta mà thôi. Vì thế không có việc độ trì, cứu rỗi 
				trong đạo Phật vì Đức Phật chỉ là bậc thầy vĩ đại chứ không phải 
				là đấng thần linh. 
				 
				Trưởng giả Cấp Cô Độc (Anàthapindika) là vị thí chủ lớn nhất ủng 
				hộ Đức Phật và Tăng chúng. Ông cùng Thái tử Kỳ-Đà (Jeta) xây 
				tịnh xá Kỳ Viên nơi mà Đức Phật đã thuyết giảng trong suốt 19 
				mùa an cư kiết hạ. Khi cư sĩ Cấp Cô Độc đau nặng sắp chết, Đức 
				Phật hay tin liền cho tôn giả Xá Lợi Phất và A Nan đến thăm. Sau 
				khi thăm hỏi bệnh tình, tôn giả Xá Lợi Phất khuyên ông Cấp Cô 
				Độc không nên để cho mắt sanh thức rồi nhiễm theo sắc trần, 
				không nên để tai sanh thức rồi nhiễm theo thanh trần… Nói chung 
				tuy sáu căn tiếp xúc với sáu trần nhưng đừng khởi thức phân biệt 
				rồi chạy theo sáu trần. Sau đó Ngài nhắc ông Cấp Cô Độc chớ để 
				tâm đắm nhiễm sắc thân tứ đại (đất, nước, gió, lửa) mà sanh tham 
				dục. Chớ để tâm đắm nhiễm cái thân ngũ uẩn (sắc, thọ, tưởng, 
				hành, thức) mà sanh tham dục. Trưởng giả Cấp Cô Độc nghe xong 
				bài pháp thoại liền rơi nước mắt mà thưa rằng : 
				 
				-    Từ trước đến giờ con chưa từng nghe bài pháp 
				như thế, bây giờ con mới được nghe. 
				 
				Tôn giả A Nan cũng nhắc nhở khuyến pháp cho ông Cấp Cô Độc. Nhắc 
				nhở, giảng giải xong, hai tôn giả từ giả ra về. Sau đó không bao 
				lâu, cư sĩ Cấp Cô Độc mệnh chung sinh lên cõi trời Đầu Suất. 
				 
				Như vậy đối với các Phật tử sắp chết, Đức Phật và các đại đệ tử 
				của Ngài chỉ đến thăm, giảng giải đạo lý nhắc cho người bệnh nhớ 
				và tin sâu vào Tam Bảo mà an lòng ra đi chớ không có tụng kinh 
				trợ niệm. Nếu những Phật tử khi mạnh khỏe thường tụng Bát Nhã 
				tâm kinh thì nên nhắc nhở với họ còn nhớ câu: “Quán tự tại 
				Bồ-tát hành thâm Bát Nhã Ba La Mật Đa thời, chiếu kiến ngủ uẩn 
				giai không, độ nhất thiết khổ ách”. Nếu họ trả lời “Nhớ” thì hỏi 
				tiếp: “Chiếu kiến ngũ uẩn giai không là sao?”. Nếu họ giải thích 
				đúng, thì hỏi tiếp: “Thế thì quý vị đã thấy ngũ uẩn giai không 
				chưa?”. Nếu họ đã thấy thì qua hết khổ nạn mà ra đi thảnh thơi. 
				Nếu họ chưa thấy thì nhắc lại cho họ tỉnh. Hoặc có thể nhắc nhở 
				một câu trong kinh Kim Cang: “Phàm sở hữu tướng giai thị hư 
				vọng, Nhược kiến chư tướng, Phi tướng tức kiến Như Lai” để đánh 
				thức họ đừng luyến tiếc xác thân, tiền của, ngay cả vợ chồng con 
				cái  thì mới ra đi nhẹ nhàng được. Như vậy là độ cho họ 
				trong giờ phút lâm chung, chớ không phải lập bàn thờ Phật, mình 
				thì tụng kinh gõ mõ còn họ thì cứ mê cứ mệt, không sáng suốt, 
				hai bên không dính dáng gì nhau. 
				 
				Ngày xưa có một Tỳ kheo trẻ mới xuất gia học đạo, nhưng lâm bệnh 
				nặng nên Đức Phật tới thăm hỏi: 
				 
				- Ông có hối tiếc điều gì không? 
				- Bạch Thế Tôn! Con có hối tiếc. 
				- Ông có phạm giới không? 
				- Bạch Thế Tôn! Con không phạm giới. 
				- Không phạm giới, sao ông hối tiếc? 
				- Bạch Thế Tôn! Con mới xuất gia, đối với pháp thượng nhân con 
				chưa có sở đắc nên hối tiếc lúc mạng chung không biết sanh về 
				nơi đâu? 
				Đức Phật hỏi tiếp : 
				- Do có nhãn căn nên mới có nhãn thức phải không? 
				- Bạch Thế Tôn! Đúng vậy. 
				- Ý ông nghĩ sao? Có nhãn thức nên có nhãn xúc. Do nhãn xúc làm 
				nhân duyên sanh cảm thọ khổ vui phải không? 
				- Bạch Thế Tôn! Đúng vậy. 
				- Từ đó nhĩ, tỷ, thiệt, thân và ý cũng vậy. 
				- Này Tỳ kheo! Nếu không có nhãn căn thì không có nhãn thức phải 
				không? 
				- Bạch Thế Tôn! Đúng vậy. 
				- Này Tỳ kheo! Nếu không có nhãn thức thì không có nhãn xúc. Nếu 
				không có nhãn xúc thì không có nhân duyên sanh cảm thọ khổ vui 
				phải không? 
				- Bạch Thế Tôn! Đúng vậy. 
				- Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý cũng nên quán như vậy. 
				- Vậy Tỳ kheo phải khéo tư duy pháp như thế. Lúc mệnh chung an 
				ổn, đời sau cũng tốt lành. 
				 
				Nhắc nhở giảng dạy xong, Đức Phật ra về, chốc lát sau Tỳ kheo 
				trẻ mệnh chung. Lúc chết các căn của Tỳ kheo ấy rất thanh tịnh 
				và dung mạo màu da tươi sáng, chứng được Niết bàn. 
				 
				Đức Phật chỉ nhắc nhở cho vị Tỳ kheo ấy nếu muốn được giải thoát 
				thì đừng chấp thân, đừng chấp tâm và đừng chấp cảnh. Do đó nếu 
				không còn chấp thì chặt đứt tham-sân-si và dĩ nhiên tâm được 
				thanh tịnh mà chứng được Niết bàn. Đức Phật chỉ nhắc nhở như thế 
				là đủ chớ Phật và đệ tử của Ngài không hề có “tụng kinh niệm 
				Phật cầu siêu”. Tại sao lại không tụng niệm? Vì người sắp chết 
				tâm lại duyên theo tiếng mõ tiếng chuông, âm vang trầm bổng của 
				lời tụng. Mà còn duyên là còn dính mắc, không tự tại, khó giải 
				thoát. Nhưng nếu nhắc nhở cho họ thấu hiểu rằng “ngũ uẩn giai 
				không” nghĩa là thân này không thật, thế gian nầy không thật, 
				cuộc đời cũng như giấc mộng, nhanh như điện chớp, như bóng mây, 
				mới thấy đó rồi mất đó. Ngay cả thân bằng quyến thuộc cũng không 
				thật bởi vì duyên kết thì còn anh còn em, còn vợ còn chồng, còn 
				con còn cháu đến khi duyên tan thì mỗi người đi mỗi ngã. Hiểu 
				được như thế thì họ dễ dàng buông xả, không còn lo phiền tức là 
				“hết khổ ách”. Tham-sân-si hết thì tâm trí sáng suốt, có an vui 
				tự tại và Niết bàn hiển lộ. Dĩ nhiên là họ sẽ được siêu thoát. 
				 
				Như thế, đạo Phật không tin vào sự cứu rỗi mà tin sâu vào nhân 
				quả, tin vào lời tuyên bố của Đức Phật khi mới thành đạo là: “Ta 
				là Phật đã thành, chúng sinh là Phật sẽ thành” và dĩ nhiên tin 
				vào câu nói sau cùng trước khi Ngài nhập diệt: “Mọi người hãy tự 
				thắp đuốc lên mà đi”. Đây chính là ngọn đuốc trí tuệ sáng chói 
				mà chính Ngài đã giơ cao để soi đường và nhắn nhủ với chúng sinh 
				phải “tự học, tự tu, tự giác mà thành Phật”. 
				 
				Còn theo kinh điển Pàli, nguồn giáo lý căn bản của Nam tông thì 
				cõi Tịnh độ hay vãng sinh được hiểu như thế nào? 
				 
				Dựa theo kinh điển Pàli, danh từ Suddhàvàsa (tiếng ghép của hai 
				chữ Suddha nghĩa là thanh tịnh và Àvàsa nghĩa là chỗ ở) có thể 
				được hiểu là Tịnh độ, chỉ chung cho các cõi nhân thiên. Còn danh 
				từ Sukhavati của Phạn ngữ có nghĩa là chốn An lạc, Lạc cảnh. Do 
				đó chữ “Tịnh độ” 
				của Trung Hoa là cõi cực lạc đúng hơn là cõi Tịnh độ. Theo các 
				chú sớ A Tỳ Đàm, có tất cả 5 cõi Tịnh độ nằm trong 16 cõi Phạm 
				thiên Hữu sắc. Đó là cõi Vô phiền, Vô nhiệt, Thiện hiện, Thiện 
				kiến và Sắc cứu cánh. Vì là cõi hữu sắc nên ở 5 cõi Tịnh độ này 
				vẫn có những lâu đài, hoa viên rất trang nghiêm, nhưng không 
				phải để hưởng thụ mà chỉ là nơi thanh tịnh tu hành. 
				 
				Đối với Phật giáo Nam tông, Phật giáo nguyên thủy, có tất cả bốn 
				hàng Thánh trí trong Thanh văn thừa. Đó là: 
				 
				1) Sơ quả Tu đà hoàn (Sotàpatti): Nếu chúng sinh loại bỏ được 3 
				thứ phiền não: thân kiến (chấp cái thân tứ đại là trường tồn bất 
				biến vì không thông hiểu luật vô thường, vô ngã, sinh sinh diệt 
				diệt nên chấp trong ta có Cái Ta riêng biệt, chắc chắn và không 
				biến đổi), hoài nghi (không tin sâu vào Phật pháp) và giới cấm 
				thủ (chấp trước các tín điều mù quáng của những tà giáo) thì họ 
				đắc được sơ quả Tu đà hoàn. Nói chung, sơ quả chỉ là giai đoạn 
				ngắn trước khi chúng sinh hoàn tất các tầng thánh trí cao hơn. 
				Quả vị này còn được gọi là Thất lai nghĩa là người chứng đắc sơ 
				quả không thể tái sinh quá 7 lần hay 7 kiếp. 
				 
				2) Nhị quả Tư đà hàm: Sau khi loại bỏ ba loại phiền não ở trên, 
				bây giờ chúng sinh tiếp tục tham thiền, niệm Phật làm giảm nhẹ 
				ái dục và sân hận thì chứng đắc Nhị quả hay còn được gọi là Nhất 
				lai (Sakadàgàmi) bởi vì những vị này chỉ có thể tái sinh vào cõi 
				Dục giới một lần chót mà thôi. 
				 
				3) Tam quả A na hàm: nghĩa là Bất lai tức là không còn tái sinh 
				trở lại một trong 11 cõi Dục giới nữa. Theo A Tỳ Đàm tạng Pàli, 
				nếu chúng sinh hoàn toàn chấm dứt ái dục (niềm tham luyến trong 
				ngũ trần) và sân hận thì sẽ chứng đắc tam quả A na hàm. Các vị A 
				nan hàm có hai chọn lựa: 
				 
				- Thứ nhất: Nếu họ có khả năng đi sâu vào thiền định như chứng 
				đắc Ngũ thiền thì bây giờ tùy theo công phu mạnh yếu của Tín, 
				Tấn, Niệm, Định, Tuệ mà họ sẽ được sinh vào một trong 5 cõi Tịnh 
				độ. Tín mạnh thì sinh về cõi Vô phiền (Avihà) có thọ mạng 1.000 
				đại kiếp, Tấn hùng hậu thì sinh về cõi Vô nhiệt (Àtappà) có thọ 
				mạng 2.000 đại kiếp, Niệm cao thì sinh về cõi Thiện hiện 
				(Sudassà) có thọ mạng 4.000 đại kiếp, Định thâm hậu thì sinh về 
				cõi Thiện kiến (Sudassi) có thọ mạng 8.000 đại kiếp và Tuệ sáng 
				chói thì sinh về cõi Sắc cứu cánh (Akanittha) có thọ mạng 16.000 
				đại kiếp. Đây là chốn sau cùng để một vị Bất lai chứng quả A la 
				hán và nhập diệt. 
				 
				- Thứ hai: Trong trường hợp vị Thánh A na hàm chưa chứng qua một 
				tầng thiền định nào nghĩa là vị này chỉ có tu trí tuệ Thiền Quán 
				(Vipassanà) mà chưa từng tu tập Thiền Chỉ (Samatha) thì đến lúc 
				mạng chung, vị này do khả năng ly dục vô sân tuyệt đối nên tối 
				thiểu cũng đạt được Sơ thiền, cũng đủ để sinh về cõi Phạm thiên 
				thấp nhất là Phạm thiên Sơ thiền. 
				 
				4) Thánh quả A la hán: là người đã chấm dứt toàn bộ phiền não. 
				 
				Trong tinh thần A Tỳ Đàm Pàli thì danh từ vãng sinh của Bắc tông 
				phải được hiểu là siêu sinh nghĩa là không còn tái sinh, một 
				điều chỉ được thực hiện bởi một vị A la hán. Như vậy, trong 
				trường hợp những vị chứng đắc từ tam quả A na hàm trở xuống sẽ 
				sinh về một trong 5 cõi Tịnh độ mới có thể gọi là vãng sinh. Như 
				thế vãng sinh Tịnh độ dựa theo tinh thần Phật giáo nguyên thủy 
				phải được hiểu là một phần đường trên hành trình giải thoát của 
				một vị Thanh văn. Do đó pháp môn Tịnh độ hay con đường vãng sinh 
				cũng đồng nghĩa với hành trình Tam vô lậu học Giới Định Tuệ và 
				37 phẩm trợ đạo của Tứ diệu đế. 
				 
				Vì vậy pháp môn Tịnh độ vẫn là cứu cánh cho tất cả mọi người, 
				nhưng dựa theo tinh thần Phật giáo nguyên thủy thì cầu vãng sinh 
				không có nghĩa là chờ đợi sự tiếp dẫn của bất cứ ai mà phải là 
				sự lên đường bằng chính đôi chân của mình. 
				 
				Thứ ba đối với mật tông hay Kim Cang thừa: Tông phái này mang 
				đầy mầu sắc lễ nghi, hình thức phức tạp và những thực hành có 
				tính cách bí truyền ngược lại với tính chất công truyền của giáo 
				lý Nguyên thủy. Trên phương diện giáo lý, mật tông dựa theo tư 
				tưởng Trung Quán và Duy Thức, nhưng trên thực tế tông phái này 
				phát triển vô số thần linh, lễ nghi, bùa chú, ấn quyết và trộn 
				lẫn với đạo Bon Pa (đạo bùa chú ở Tây Tạng có trước khi đạo Phật 
				du nhập vào Tây Tạng). Mật tông Tây Tạng quan niệm rằng: “luân 
				hồi là Niết bàn” cho nên họ dùng tất cả những kinh nghiệm sống 
				của con người, tất cả những trạng thái tâm thần, dù là xấu xa 
				hèn kém để chuyển hóa chúng nhằm vượt khỏi thế giới phân biệt 
				đối đãi nhị nguyên mà chứng đạt được chân lý. Vì mật ngữ phải 
				truyền từ vị thầy đến đệ tử do đó trên con đường tu học này rất 
				khó khăn và phức tạp khiến sự hướng dẫn của một vị thầy là một 
				điều cốt yếu cho nên người đệ tử phải có một niềm tin vững chắc 
				vào vị thầy cũng như lòng tin ở khả năng giác ngộ của chính 
				mình. 
				 
				Như thế, trong đạo Phật đức tin chỉ là phương tiện, trí tuệ cũng 
				chỉ là phương tiện, nhưng là phương tiện cốt yếu trong khi đức 
				tin là một phương tiện thứ yếu, tạm thời. Vì vậy cho dù chúng 
				sinh có tu theo tiểu thừa, đại thừa, tu theo thiền, tịnh hay 
				mật, hiển hay giáo thì mục đích tối hậu của đạo Phật là giải 
				thoát giác ngộ và niềm tin tối thượng vẫn là tin tưởng ở chính 
				mình, ở khả năng tự giác của mình và tin vào tự tánh thanh tịnh 
				bản nhiên tức là Phật tánh, là chơn tâm lúc nào cũng sẵn có và 
				hằng sáng ở trong ta. 
				  
				ĐẠO PHẬT DƯỚI ÁNH MẮT 
				CỦA NGƯỜI PHẬT TỬ. 
				  
				1) Người đệ tử Phật không 
				bị ràng buộc bởi bất cứ tín điều, tư tưởng, chủ nghĩa hay sự cấm 
				kỵ nào bởi vì Phật giáo phủ nhận đầu óc cuồng tín và giáo điều 
				cực đoan. Nếu không tin Phật thì người đó không bị trừng phạt 
				hay bị đày xuống hỏa ngục, nhưng nếu người đó làm điều xấu hoặc 
				điều ác thì chính họ đang sống trong Hỏa ngục rồi. Lời Phật dạy 
				giống như viên thuốc, nếu uống thì hết bịnh còn không uống thì 
				tiếp tục sống trong vô minh điên đảo khổ đau, chịu sinh tử luân 
				hồi thế thôi. 
				 
				2) Sự sống chết của con người là do nhân quả mà ra chớ không do 
				quỷ thần hay Nam Tào, Bắc Đẩu xóa sổ. Tất cả những hạnh phúc hay 
				khổ đau của con người là do chính tay họ tự tạo ra chớ Quỷ Thần 
				không can dự vào được. Thử hỏi bao nhiêu thiên tai, tai nạn 
				khủng khiếp và bao cuộc chiến tranh đẫm máu do ai gây ra? Phải 
				chăng đây là do lòng tham vô đáy của con người đã tác tạo ra 
				những cộng nghiệp, biệt nghiệp bất thiện nên phải gánh chịu quả 
				báo đau thương tang tóc hay do một đấng thần linh nào đó vì phẫn 
				nộ với loài người gây ra? Trong thế gian vũ trụ này không có cái 
				gì là cố định cả. Nếu không có sự chuyển động thì thế giới, vũ 
				trụ, con nguời cũng không còn, không tồn tại. Do sự chuyển động 
				của địa cầu làm rung chuyển những khối lỏng nham thạch bên trong 
				mà tạo thành động đất, núi lửa. Vậy theo tinh thần Phật giáo, 
				không có một vị thần linh nào có thể nhẫn tâm trừng phạt, hủy 
				diệt loài người và gây đau thương chết chóc khắp mọi nơi mà đây 
				chỉ là kết quả mà chính con người đã tạo ra cho chính mình. 
				 
				Thêm nữa, khi nói về Thượng đế, Phạm thiên, hay thần linh thì 
				Đức Phật có dạy rằng: 
				 
				“Như vậy, chính do ý muốn và sự tạo tác của đấng Tối Cao mà con 
				người trở thành sát nhân, trộm cắp, tà dâm, phỉ báng, thô lỗ, 
				nhảm nhí, thèm thuồng, khao khát, hiểm độc, tinh quái và hiểu 
				biết sai lầm. Do đó đối với người chủ trương thần linh là nguyên 
				nhân chính yếu của tất cả những điều ấy”. 
				 
				Trong Túc Sanh Truyện (Maha Bodhi Jataka) cũng nói rằng: “Nếu có 
				một đấng thần linh toàn quyền ban phước hay giáng họa cho tạo 
				vật đã được chính Ngài tạo ra và cho chúng nó những hành động 
				tốt hay xấu thì vị thần linh ấy quả thật đầy tội lỗi. Bởi vì con 
				người chỉ thừa hành ý muốn của đấng thần linh đó”. 
				 
				Do đó nếu nói Thượng đế là đấng toàn năng toàn thiện thì tại sao 
				Ngài lại sáng tạo cái thế giới con người đầy dẫy tội lỗi đau 
				thương? Tại sao Ngài tạo ra biết bao nhiêu cảnh tai trời ách 
				nước, tàn phá, giết hại chúng sinh? Như thế thì lòng bác ái của 
				Ngài ở đâu? Vậy sự cầu nguyện có làm bớt thiên tai, dịch họa, 
				chiến tranh hay khổ đau của con người được không? Vì thế Phật 
				giáo phủ nhận sự hiện hữu thần linh trong cuộc sống của con 
				người. Theo tinh thần Phật giáo thì chính con người phải tự mình 
				giải quyết những vấn đề như chiến tranh hay hòa bình, hạnh phúc 
				hay khổ đau của chính mình. Chiến tranh hay hòa bình là do con 
				người quyết định chớ không dính dấp gì tới Phật trời cả. 
				Nếu con người biết sống 
				khoan dung độ lượng để biết thương yêu nhau thì họ biến chiến 
				tranh thành hòa bình, ngược lại nếu các nhà lãnh đạo chạy theo 
				những tham vọng đen tối thì từ hòa bình thành chiến tranh giết 
				chóc thế thôi. Thêm nữa, do sự chuyển động của trái đất, của núi 
				lửa, của những cơn gió lốc… theo định luật vô thường: thành, 
				trụ, hoại, không đã tác hại con người. Nói chung thì đó cũng là 
				do lòng tham của con người phá hũy môi trường sống của chính 
				mình qua chiến tranh, qua những cuộc thí nghiệm nguyên tử, qua 
				tàn phá thiên nhiên, đốt rừng tiêu hủy cây cối… tạo nên những 
				ảnh hưởng dây chuyền nguy hiểm cho nhân sinh. Con người cũng vì 
				muốn thỏa mãn lòng tham mà đi ngược lại với thiên nhiên nên hàng 
				ngày lấy lên từ lòng đất, từ lòng biển hàng triệu thứ từ kim 
				cương đến vàng, bạc, nhôm, sắt, khí đốt, dầu hỏa rồi lại thải ra 
				hàng triệu tấn chất độc tác hại gây ra lầm than qua thiên tai, 
				động đất, sóng thần, bảo lụt, hạn hán… Vì thế con người không 
				thể tin rằng có một Thần linh nào đó có thể nhẫn tâm trừng phạt, 
				hủy diệt loài người và gây đau thương chết chóc tang tóc khắp 
				mọi nơi. Khi liễu ngộ như thế con người không phải sợ hãi thần 
				linh, tôn thờ thần linh, van vái và cầu xin ở thần linh nữa. 
				 
				3) Lời nói đầu tiên của Đức Phật khi Ngài vừa thành đạo dưới cội 
				Bồ-đề là “trong mọi chúng sinh ai ai cũng đều có Phật tánh như 
				nhau” nghĩa là bất cứ chúng sinh nào cũng có khả năng tu thành 
				Phật cũng như Phật. Đây là tinh thần bình đẳng mà chỉ Phật giáo 
				mới có. Vì thế đối với người Phật tử một khi đã thấm nhuần tinh 
				thần bình đẳng của nhà Phật thì dưới nhãn thức của họ sẽ không 
				có giai cấp, không có nạn kỳ thị chủng tộc, không có Phật tử 
				giàu sang và Phật tử nghèo hèn, không có Phật tử thông minh hay 
				Phật tử đần độn. Do đó khi người Phật tử lễ Phật là lễ lạy, cung 
				kính cái Phật tánh có sẵn trong con người mình và cung kính tất 
				cả những phẩm hạnh cao quý vốn có sẵn trong tự tánh của chính 
				mình nếu biết phát huy chớ không phải vái lạy, van xin hay cầu 
				nguyện để thỏa mãn những đòi hỏi phát xuất từ dục vọng của mình. 
				 
				4) Khi con người biết xã bỏ những thú vui giả tạm của thế gian 
				để phát huy triệt để tiềm năng của lòng từ bi và trí tuệ thì họ 
				sẽ có an lạc, thanh tịnh của Niết bàn mà không cần cầu xin, van 
				vái gì hết bởi vì Niết bàn Bồ-đề vốn đã có sẵn trong họ chớ 
				không do Phật trời ban tặng. Phật giáo chủ trương phiền não tức 
				Bồ-đề và sinh tử tức Niết bàn. Tại sao? Trong cuộc sống, con 
				người vì chạy theo miếng cơm manh áo, sắc tài danh lợi mà tự 
				mình tạo ra biết bao phiền não làm che lấp tự tánh Bồ-đề nên 
				sống trong vô minh đen tối. Bây giờ nếu biết thức tỉnh, hồi 
				quang phản chiếu để hóa giải hết những phiền não kia thì đám mây 
				đen vô minh tan biến và ánh sáng huyền diệu Bồ-đề từ từ hiển 
				hiện trong tâm. Còn sinh tử là khổ đau. Trên thế gian này tất cả 
				mọi vật thể đều là tự tánh thanh tịnh bản nhiên, không ô nhiễm 
				nên gọi là pháp tánh cũng như tất cả chúng sinh đều có tự tánh 
				Bồ-đề mà nhà Phật gọi là Phật tánh. 
				Thí dụ như cây cỏ, núi cao 
				rừng thẳm đâu có lôi cuốn, quyến rũ ai đâu, nhưng con người thấy 
				cảnh liền mê, tham hoa hiếu sắc. Do đó tham mê sắc dục là tại 
				cái nhìn của người còn vô minh chớ thiên nhiên lúc nào cũng 
				thanh tịnh hồn nhiên, không ô nhiễm. Con người cũng thế, nếu 
				chúng sinh nhìn thế gian bằng con mắt tham đắm dục tình thì cái 
				gì cũng mê cũng thích, nhưng cũng con người đó bây giờ hiểu đạo 
				mà nhận biết rằng vạn pháp giai không nên không còn chấp thủ, 
				đắm say. Hiểu đạo thì có cũng được mà không cũng chẳng sao, tất 
				cả chỉ là phương tiện để sống chớ không xem nó là cứu cánh của 
				cuộc đời. Sống đúng như vậy thì sẽ có tâm thanh tịnh tức là Phật 
				tánh hiển bày. 
				Vậy Phật tánh lúc nào cũng 
				sẵn có trong tất cả mọi chúng sinh cũng như ánh sánh mặt trời 
				lúc nào cũng chiếu sáng. Nhưng nếu con người chạy theo phiền não 
				vô minh thì Phật tánh biến mất cũng như đám mây đen hắc ám che 
				lấp ánh sáng mặt trời. Vậy thế gian làm gì có ô nhiễm, khổ đau 
				hay nói rõ ràng hơn là sáu căn, sáu trần, sáu thức và bảy đại 
				cũng không phải là nguyên nhân của tội lỗi xấu xa. Khổ đau là do 
				con người tự ràng buộc, tự trói lấy mình chứ Phật trời có trói 
				buộc ai đâu. Khi con người biết hồi đầu thị ngạn, tư duy quán 
				chiếu để cởi bỏ, tháo gở cho hết những trói buộc do chính mình 
				tạo tác thì khổ đau từ từ tan biến, ô nhiễm bị tiêu trừ và dĩ 
				nhiên niềm an lạc, thanh tịnh, tự tại của Niết bàn hiện ra mà 
				không cần cầu nguyện chi hết. 
				 
				5) Trong lịch sử nhân loại từ cổ đến kim, bao nhiêu cuộc chiến 
				tranh tàn khốc, bao nhiêu cảnh anh em, cha mẹ, vợ chồng, con 
				cái, xóm làng chém giết, sát hại lẫn nhau cũng chỉ vì tánh tham, 
				tật đố. Giáo lý Đức Phật sẽ là những liều thuốc nhiệm mầu xoa 
				dịu nổi đau thương làm con người gần nhau hơn vì còn tham-sân-si 
				là con người còn đau khổ. Vì muốn thỏa mãn lòng tham nên con 
				người không bao giờ thấy đủ, không hạnh phúc với những gì mình 
				có. Người giàu thì muốn giàu hơn cho nên đầu óc không còn sáng 
				suốt nên dễ dàng làm chuyện phi pháp, trái với đạo đức mà phải 
				thọ báo quả khổ về sau. Quốc gia lớn nuốt sống những nước nhỏ, 
				người mạnh ỷ thế hiếp kẻ yếu thế cô… Thí dụ ngày xưa bạo chúa 
				Tần Thủy Hoàng cậy sức mạnh thôn tính sáu nước chư hầu mà cuộc 
				sống ông ta đâu có hạnh phúc vì lúc nào cũng sợ có kẻ báo thù 
				cho nên ông ăn không ngon và ngủ chỉ thấy toàn ác mộng. Vì muốn 
				sống lâu để thỏa mãn những dục tính điên cuồng nên ông sai người 
				tâm phúc đi tìm thuốc trường sinh bất tử nhưng cuối cùng ông 
				cũng chết vì uống nhằm độc dược có chất Thủy Ngân. Do đó Phật 
				dạy biết “tri túc thiểu dục” là có hạnh phúc. Thật vậy, người 
				giàu chưa chắc cuộc sống đã là sung sướng bởi vì có càng to thì 
				lo càng lớn. Công danh phú quý cũng như đeo ách trên vai, ách 
				càng to thì vai càng nặng chớ có sung sướng gì. Còn người nghèo 
				mà biết gói ghém, vun bồi đạo đức, trên thuận dưới hòa thì chắc 
				gì đã khổ đau bởi vì hạnh phúc hay khổ đau là ở chỗ biết sống vì 
				thế cổ nhân cũng có câu: “Trọc phú đa ưu, thanh bần an lạc” là 
				vậy. Cho nên người không hiểu đạo, lúc lâm vào cảnh nghèo túng 
				thì đâm ra buồn khổ tức là: 
				 
				“Lòng quanh quéo càng thêm quanh quéo, 
				Cảnh đìu hiu dạ lại đìu hiu” 
				 
				Cho nên: 
				 
				“Lòng buồn sanh bệnh, bệnh sanh lòng buồn”. 
				 
				Do đó vui vẻ trong mọi hoàn cảnh là có hạnh phúc rồi. Vì thế mà 
				Đức Phật dạy rằng: 
				 
				“Tham dục chính là nguồn gốc của khổ đau. Mọi vật rồi sẽ thay 
				đổi, vì thế không nên luyến ái hay vướng víu vào một thứ gì. Nên 
				nhiếp tâm thanh tịnh tìm chân lý và đạt đến hạnh phúc vĩnh 
				hằng.” 
				 
				Biết tri túc thiểu dục là biết sống hạnh phúc với những điều 
				kiện vật chất khả dĩ giúp cho con người có đầy đủ sức khỏe để tu 
				tâm dưỡng tánh và đây là phương cách hữu hiệu nhất để cắt đứt 
				lưới tham dục, an ổn thân tâm và có nhiều thì giờ giúp đở tha 
				nhân. Từ đó chúng sinh mới có thể nhiếp tâm thanh tịnh nghĩa là 
				kiểm soát, đừng để tâm chạy theo khách trần phiền não mà chứng 
				được chân lý và dĩ nhiên Bồ-đề, Niết bàn hiển hiện tức là có 
				được hạnh phúc vĩnh hằng vậy. 
				 
				Những gì Đức Phật dạy đều phát xuất từ đời sống kinh nghiệm và 
				chứng đắc của bản thân vì thế, Ngài dạy chúng sinh những ý chí 
				sắt đá, trí tuệ cao siêu, đức vị tha phục vụ, sự thoát ly và 
				sống đời gương mẫu làm lợi lạc cho mình, cho người. Con người vĩ 
				đại đó, tấm lòng đại từ đại bi đại trí tuệ đó, phương pháp giáo 
				dục siêu việt đó của Đức Phật đã làm cho thế giới kính phục Ngài 
				như một đạo sư siêu việt nhất trong lịch sử nhân loại. Đạo Phật 
				là con đường giúp chúng sinh tự mình thể nghiệm chân lý mà Phật 
				chỉ là kẻ dẫn đường, người hướng đạo. Do đó toàn bộ giáo lý Đức 
				Phật chỉ là phương tiện mà thực chứng chân lý mới là cứu cánh 
				cho nên lời nói của Phật có mục đích để cho con người phát nghi, 
				chớ không để cho người ta chấp thật. Tại sao? Vì có nghi con 
				người mới nỗ lực tìm câu trả lời thì đây chính là những công án 
				rất nhiệm mầu giúp chúng sinh thể nghiệm chân lý. 
				Đó cũng là con đường mà Đức 
				Phật ngày xưa đã đi. Vì Chân lý chỉ có thể nghiệm chứng chứ 
				không thể diễn tả cho dù là Phật cũng không nói được, nên Ngài 
				mới nói rằng “Ta chưa hề nói một chữ” là vậy. Nói cách khác, Đức 
				Phật dạy chúng sinh đời là bể khổ vì Ngài thấy biết như thế. Nếu 
				Đức Phật là đấng thần linh thì Ngài chỉ cần niệm Úm Ba Di Bát 
				Nhị Hồng rồi phảy cái phất trần thì thế gian làm gì còn khổ đau. 
				Biết đời là bể khổ, nhưng chính Ngài không thể hóa giải nỗi khổ 
				của chúng sinh mà mỗi người phải tự giải thoát lấy những hệ lụy 
				khổ đau của riêng mình mà Phật chỉ là người hướng đạo mà thôi. 
				 
				Tuy Đức Phật đã khẳng định rằng Ngài không phải là đấng thần 
				linh, không phải là Thượng đế, không phải là đấng cứu thế, nhưng 
				tại sao hàng năm các chùa Phật giáo Việt Nam ở hải ngoại đều gởi 
				thơ để kêu gọi cầu an cầu siêu cho Phật tử? Phải chăng đây là do 
				lòng từ bi của quý Thầy Cô muốn độ chúng sinh? Thật sự cầu siêu 
				có phải là của Phật giáo không? 
				 
				Để giải thích cho nghi vấn nầy, chúng tôi xin trích đăng nguyên 
				văn một đoạn trong bộ “Giáo Khoa Phật Học cấp 2” do Ban Bảo Trợ 
				Phiên Dịch Pháp Tạng Việt Nam ấn hành như sau: 
				 
				“…Về tập tục tụng kinh siêu độ cho người chết, theo hòa thượng 
				Đạo An, vốn không phải là một tập tục truyền thống của Phật 
				giáo. Tập tục này chỉ bắt đầu có ở Trung Quốc từ đời nhà Đường. 
				Vì theo sử chép thì năm 738, vua Đường Huyền Tông đã ban sắc 
				lệnh cho toàn quốc, ở mỗi quận đều xây một ngôi chùa, đều đặt 
				tên là chùa Khai Nguyên (Khai Nguyên là niên hiệu thứ nhì của 
				vua Huyền Tông). Đó là chùa công, do các quan lại địa phương 
				trông coi, dùng làm nơi tổ chức các lễ tiết quốc gia, cầu quốc 
				thái dân an. Việc làm này vừa có ý nghĩa đem ân huệ của Phật ban 
				đến quốc dân, cũng vừa để biểu thị quyền uy của chính quyền 
				trung ương. 
				Năm 755, An Lộc Sơn nổi 
				loạn, kéo binh về chiếm kinh thành, khiến vua Huyền Tông phải 
				chạy vào Tứ Xuyên lánh nạn. Một năm sau thì quân triều đình dẹp 
				yên giặc loạn. Trong một năm chiến tranh này, số người chết gồm 
				các chiến sĩ của cả hai bên và thường dân nhiều vô kể. Triều 
				đình bèn ra chỉ dụ cho tất cả các chùa Khai Nguyên trong toàn 
				quốc, thỉnh chư vị cao tăng đại đức, thiết lễ tụng kinh siêu độ 
				cho chiến sĩ và thường dân đã chết trong cuộc chiến vừa qua, 
				đồng thời an ủi các gia đình nạn nhân. Dân chúng thấy triều đình 
				làm như thế, bèn bắt chước làm theo, cứ mỗi khi trong nhà có 
				người chết, liền thỉnh chư tăng tụng kinh siêu độ. Từ đó mà lễ 
				cầu siêu độ cho người chết trở thành một tập tục trong dân 
				gian”. 
				 
				Vua Đường Huyền Tông vì dùng quyền lực của một vì vua mà bắt ép 
				Dương Thái Chân lúc bấy giờ là người tình của tướng An Lộc Sơn 
				vào cung làm Dương Phi. Vì quá phẫn nộ An Lộc Sơn tạo phản làm 
				vua tôi nhà Đường phải chạy vào Tứ Xuyên lánh nạn. Trên đường 
				bôn tẩu ba đào, vua phải cắn răng chiều lòng ba quân tướng sĩ 
				giết chết Dương Thái Phi. Tuy chiếm được Trường An, nhưng người 
				ngọc Dương Thái Chân đã thành người thiên cổ nên An Lộc Sơn chỉ 
				nắm được trong tay một xác thân giá lạnh, cứng ngắc, đã bốc mùi 
				hôi thúi, chảy nước vàng. Nếu An Lộc Sơn biết “Quán thân bất 
				tịnh” nghĩa là quán chiếu để biết rằng thân xác con người là nhơ 
				nhớp, hôi thúi và được che đậy bởi một lớp da mỏng mềm dịu êm ái 
				bên ngoài để quyến rũ con người vào vòng tội nghiệp cũng như 
				viên thuốc độc bọc đường thì cho dù có mười Dương Thái Chân, An 
				Lộc Sơn cũng không màng, không gây loạn chớ đâu phải đợi đến khi 
				ôm cái thây ma thối tha thì ông mới biết thân này là bất tịnh. 
				Do đó cho dù là Tây Thi, Trịnh Đán thì đến khi già, khi bệnh 
				cũng không thoát khỏi cái luật vô thường cay nghiệt đó. Vì thế 
				mà người xưa có câu: 
				 
				Má thoáng hương mai, mặt nhụy đào, 
				Thấy rồi mắt dán, ý nao nao. 
				Thảy đều một đãy da hôi thúi, 
				Thầm cắt ruột người chẳng dụng dao. 
				 
				Nghĩa là khi thấy một người đẹp, tuyệt sắc giai nhân thì mắt 
				nhìn mãi không rời và lòng xốn xang xao xuyến nao nao. Nhưng xét 
				cho cùng đó chỉ là cái dáng bên ngoài vì bên trong chỉ là một 
				đãy da hôi thúi. Do đó càng đắm mê sắc đẹp thì càng dễ gặp tai 
				họa cũng như ngày xưa vua Ngô Phù Sai vì say mê sắc đẹp Tây Thi, 
				ngày đêm vui chơi trên Cô Tô Đài mà quên cả giang sơn quốc sự 
				nên về sau bị vua Việt Câu Tiển kéo quân sang đánh làm nước Ngô 
				tan nát và vua Ngô phải chết. Vì thế kẻ tham mê sắc dục thì đạo 
				đức tiêu tan, vợ chồng bất hòa, gia phong bại hoại. 
				 
				Là người Việt Nam không ai mà không biết được hình ảnh quen 
				thuộc của Thúy Kiều, một tuyệt sắc giai nhân, đã được thi hào 
				Nguyễn Du diễn tả như sau: 
				 
				“Khuôn trăng đầy đặn nét ngài nở nang. 
				Hoa cười ngọc thốt đoan trang, 
				Mây thua nước tóc tuyết nhường màu da… 
				Làn thu thủy nét xuân sơn, 
				Hoa ghen thua thắm liễu hờn kém xanh…”. 
				 
				Đẹp như thế mà tại sao về sau nàng Kiều cũng phải than rằng: 
				 
				“Xót thay chiếc lá bơ vơ, 
				Kiếp trần biết giữ bao giờ cho xong. 
				Hoa trôi nước chảy xuôi dòng, 
				Xót thân chìm nổi đau lòng hợp tan…” . 
				 
				Nếu sắc đẹp thật sự mang lại hạnh phúc thì tại sao Thúy Kiều lại 
				than trời trách đất, sống dở chết dở như vậy. Hay là: 
				 
				”Rằng: Hồng nhan tự nghìn xưa, 
				Cái điều bạc mệnh có chừa ai đâu”. 
				 
				Nguyễn Du vì không thể giải thích hiện tượng hồng nhan bạc mệnh 
				nên đổ hết tội cho ông trời và thuyết định mệnh của Nho giáo. 
				Nhưng trên thế giới, từ cổ đến kim, từ Đông qua Tây không nhất 
				thiết hễ là người đẹp thì phải chịu cảnh “má hồng phận bạc” như 
				Nguyễn Du nói đâu? Biết bao hoa khôi, mệnh phụ phu nhân có hạnh 
				phúc tràn đầy. Do đó, thuyết định mệnh không làm Thúy Kiều đau 
				khổ, mà đây chính là luật nhân quả của nhà Phật đã chi phối ảnh 
				hưởng cuộc đời của Thúy Kiều và của tất cả chúng sinh. Dựa theo 
				Phật giáo, nếu chúng sinh khéo gieo nhân thì người đó cũng có 
				thể tạo cho mình một quả báo để có diện mạo đẹp đẽ về sau, nhưng 
				nét đẹp đó không liên quan gì tới đạo đức cả. Vì thế, họ có thể 
				là tuyệt thế mỹ nhân nhưng vẫn phải gánh chịu những nỗi bất hạnh 
				như thường. Muốn có cuộc sống hạnh phúc thì họ phải gieo nhân 
				lành, biết bố thí cúng dường, biết kiên trì giữ giới hạnh, hiếu 
				đễ với cha mẹ, sắt son chung thủy với bạn đời, tín nghĩa với bạn 
				bè, trung hậu với chủ nhân… Chính những phước duyên này sẽ kiến 
				tạo cho họ ở đời sau chẳng những là một tuyệt thế mỹ nhân mà còn 
				là người duyên dáng đạo đức làm mọi người kính mến, thương yêu. 
				 
				Chính vậy mà Nguyễn Gia Thiều cũng nói rằng: 
				 
				“Hoàng hôn thôi lại hôn hoàng, 
				Nguyệt hoa thôi lại thêm buồn nguyệt hoa”. 
				 
				Bây giờ hãy lắng nghe Thái tử Tất Đạt Đa than thở với Công chúa 
				Da Du Đà La trước khi Ngài đi xuất gia: 
				 
				”Chúng ta sẽ già yếu và xấu đi. Thời gian sẽ phủ lên đầu chúng 
				ta những lớp tro bạc. Ôi! Mặt trong của nàng rồi sẽ mờ đục. Môi 
				thắm của nàng rồi sẽ úa màu. Ta nghe trong ta, trong nàng và 
				trong tất cả mọi người, mỗi ngày mỗi đổ vỡ dưới sức tàn phá của 
				cái búa thời gian… Chúng ta ôm giữ một cách tuyệt vọng những bảo 
				vật ở trong ta như ôm giữ một cái bóng, như nắm bắt một làn 
				hương.”. 
				 
				Vì vậy cuộc tiệc nào chẳng có lúc tàn, dung nhan nào chẳng có 
				lúc tàn phai do đó chỉ có cái đẹp tự trong tâm hồn là cái đẹp 
				bền vững, không bao giờ phai nhạt và không còn sợ bị quỷ vô 
				thường ám hại. 
				 
				Thế thì cầu an cầu siêu “không phải” là truyền thống của Phật 
				giáo. Chúng sinh phải tự hỏi rằng Phật hay Bồ-tát có thể tiêu 
				trừ những khổ đau, tội nghiệp và những rắc rối của mình được 
				không? Nói cách khác, mình tạo nhân mà người khác chuyển quả có 
				được không? Một người ăn mà người khác có no được không? Con 
				người phải trực tiếp nhận lãnh trách nhiệm của chính mình cho 
				những gì xảy ra đến với mình. Người làm lành sẽ được thưởng quả 
				tốt, ngược lại, kẻ gieo nhân ác sẽ phải thọ lãnh điều bất hạnh 
				thế thôi. Luật nghiệp quả rất công bình, hợp lý và không thiên 
				vị bất cứ một ai cho dù đó là Đức Phật. Một kiếp quá khứ, tiền 
				thân Đức Phật vì lở tạo khẩu nghiệp, cho đến kiếp này mặc dù đã 
				thành Phật vẫn phải trả như thường. Ngài phải ăn lúa dành để 
				nuôi ngựa đến 3 tháng mới xóa được nghiệp bất thiện này. Vì thế 
				nếu con người muốn cải thiện đời sống của mình thì nó tùy thuộc 
				vào sự thay đổi cách cư xử, lối sống và những thái độ nhằm để 
				tác động những gì sẽ xảy ra trong tương lai. 
				 
				Đức Phật không dạy cầu an cầu siêu vì có cầu cũng chẳng được bởi 
				vì nhân nào quả nấy, trồng khế thì ăn quả chua còn trồng quít 
				thì hưởng quả ngọt thế thôi. Con người khi còn sống thì dối 
				người, lợi mình. Dối người chưa đủ họ còn quay lại dối mình và 
				dối luôn cả Phật trời. Nhưng khi chết thì thân vật lý đâu còn 
				nữa để che đậy sự dối trá của mình nên tất cả các nghiệp thiện 
				ác hiện ra rất rõ ràng trong thân trung ấm (thân tư tưởng trong 
				hư không) để đưa họ tái sinh tương xứng với quả nghiệp của họ. 
				Khi đi tái sinh thì cái ngã tan vỡ đâu còn nên hài nhi không còn 
				nhớ mình là ai, từ đâu đến, đã làm những việc thiện ác gì. Từ 
				đây nó mang một hình hài mới, sắc diện mới, tên họ mới, cha mẹ 
				anh em dòng họ mới và một cuộc đời mới tương xứng với tất cả 
				những quả nghiệp mà nó đã tạo tác từ những đời quá khứ. Cái ngã 
				cũ không còn, tên họ cũ mất đi. 
				Thí dụ ngày xưa là Nguyễn 
				văn A bây giờ tái sinh thành ra John Smith thì ông A vĩnh viễn 
				biến mất trong thế gian rồi, còn đâu nữa mà cầu. Ngày xưa tôn 
				giả Mục Kiền Liên là thánh Tăng mà không siêu nổi cho mẹ ông thì 
				phàm tăng đời nay có ai dám bảo đảm làm được? Còn nếu năm nay 
				các chùa tụng kinh cầu siêu cho ông bà chúng ta được siêu sinh 
				tịnh độ rồi, thì năm tới tại sao các chùa cũng tiếp tục gởi thơ 
				để cầu siêu nữa? Nếu đã siêu rồi thì tại sao năm nào cũng cầu? 
				Cầu đến bao nhiêu năm mới được siêu? Dựa theo Phật giáo, nếu 
				muốn siêu thì khi còn sống con người phải lo tu tâm dưỡng tánh, 
				làm lành tránh dữ, vun bồi phước đức và công đức để biến cuộc 
				sống thành an vui tự tại, thanh tịnh giải thoát thì khi nhắm mắt 
				sẽ được an nhiên siêu thoát mà không cần ai cầu ai nguyện chi 
				cả. 
				 
				Hãy nghe tiến sĩ Oldebburg, một học giả người Đức phát biểu 
				rằng: 
				 
				- Đức Phật không giải thoát con người, nhưng Ngài dạy con người 
				phải tự chính mình giải thoát lấy mình, như chính Ngài đã tự 
				giải thoát lấy Ngài. Con người chấp nhận giáo lý của Ngài là 
				chân lý, không phải giáo lý này đến từ nơi Ngài, nhưng vì lòng 
				xác tín cá nhân, thức tỉnh bởi những lời Ngài dạy, trỗi dậy bởi 
				ánh sáng trí tuệ của chính mình. 
				Ngay cả Giáo sư Eliot viết trong cuốn “Phật giáo và Ấn Độ giáo” 
				rằng: 
				 
				- Lần đầu tiên trong lịch sử thế giới, Đức Phật tuyên bố sự giải 
				thoát, mỗi con người có thể đạt được do chính bản thân mình 
				trong đời sống của mình trên thế giới mà không cần đến sự giúp 
				đở của Thượng đế hay thánh thần nào. Ngài nhấn mạnh về giáo lý 
				như lòng tự tin, thanh tịnh, nhã nhặn giác ngộ, an lạc và lòng 
				thương yêu nhân loại. Ngài cũng nhấn mạnh đến sự cần thiết của 
				trí tuệ vì không có nó thì siêu linh nội tâm không xâm nhập 
				trong đời sống của Ngài được. 
				 
				Tóm lại, đạo Phật không phải là đạo đổi chác, không phải là đạo 
				ban bố phép mầu và cũng không phải là đạo hứa hẹn. Sự giải thoát 
				giác ngộ hay sự an lạc thanh tịnh Niết bàn thật ra tự chúng sinh 
				đem lại cho mình chớ Phật không ban bố cho ai cả. Vì thế, tuy 
				đạo Phật là đạo của từ bi, trí tuệ và lòng dũng cảm, nhưng nếu 
				con người không tin vào lòng từ bi để thương yêu, ban vui cứu 
				khổ để cứu giúp chúng sinh; vào khả năng phát triển trí tuệ để 
				chứng đạt chân lý ngỏ hầu thấu biết được thật tướng nhân sinh vũ 
				trụ và lòng dũng cảm để vượt qua sóng gió chập chùng mà chiến 
				thắng được vô minh phiền não của mình mà chỉ muốn cầu xin, van 
				vái thần linh để có hạnh phúc thì con đường họ đi chắc chắn “ 
				không phải” là đạo Phật. 
				
				
				 |  
				 |