| 
				   
				Lúc bấy giờ A Nan ở trong đại chúng, 
				liền đứng dậy từ chỗ ngồi bày vai áo bên phải, gối bên phải qùy 
				sát đất, chắp tay cung kính bạch Phật : 
				 
				- Con là em nhỏ nhất của Phật, nhờ Thế Tôn thương yêu, nay tuy 
				con đã xuất gia, nhưng vẫn còn ỷ nại lòng thương yêu của Thế 
				Tôn, do đó chỉ được đa văn chưa được quả vô lậu. Nên con bị chú 
				thuật Satìcala lôi kéo và sa vào nhà dâm, tất cả chỉ vì không 
				biết chỗ quy hướng của chơn tâm. 
				Cúi mong đức Thế Tôn mở 
				rộng lòng từ, thương xót chỉ dạy cho chúng con pháp tu thiền 
				định Xa-ma-tha, khiến cho hàng nhất-xiển-đề và miệt-lệ-xa thoát 
				khỏi tà kiến. Thỉnh cầu như vậy xong, rồi gieo năm vóc sát đất 
				cùng toàn thể đại chúng kính cẩn lắng nghe lời Phật chỉ dạy. 
				 
				Trong phần đầu của kinh, ông A Nan nêu lý do xuất gia là vì kính 
				yêu sắc tướng trang nghiêm thanh tịnh của Phật chớ không phải là 
				vì cứu cánh giải thoát giác ngộ cứu độ chúng sinh. Như thế rõ 
				ràng ông A Nan xuất gia với tâm không chân chính nghĩa là thân 
				tuy xuất gia mà tâm chưa vào đạo nên khi vào tăng đoàn, thay vì 
				lo tu tập như các vị thánh tăng khác, ông chỉ lo học rộng nghe 
				nhiều để thỏa mản nhu cầu trí thức và có tâm ỷ nại nơi Phật. Vì 
				ông là em chú bác và cũng là thị giả của Phật nên theo ông nghĩ, 
				Phật không bao giờ bỏ rơi ông. Ông tin chắc rằng trước khi Phật 
				nhập Niết bàn thì thế nào Phật cũng ban cho ông quả vị Bồ-đề và 
				khi Phật nhập vào Niết bàn thì cũng đem ông theo cũng như vai 
				trò thị giả của ông bây giờ vậy. Đối với ông, Đức Phật là một 
				bóng mát luôn che chở cho ông và cho cả tâm hồn của ông vì bất 
				cứ nơi nào có bước chân của Phật là có bóng dáng của ông. Vì tin 
				chắc như vậy nên tuy theo chân Phật suốt hai mươi bảy năm mà ông 
				không chịu tu chứng đến lúc gặp nạn dâm nữ Ma đăng già mới làm 
				ông thức tỉnh mà thỉnh cầu Phật chỉ cho pháp môn Xa-ma-tha để 
				tu. Một trường hợp ỹ lại khác trong tăng đoàn là tôn giả La hầu 
				La. Vì là con của Phật và cháu của vua nên khi mới vào tăng đoàn 
				làm Sa di, La hầu La không chịu tu hành, ương ngạnh, nói dối, 
				đến khi Ngài thức tỉnh, phá được bản ngã, tinh tấn tu hành mới 
				chứng được Thánh quả. 
				 
				Vậy tại sao ông A Nan lại thỉnh cầu Đức Phật chỉ dạy pháp môn 
				Xa-ma-tha? Đây là một phương pháp tu Chỉ cũng được gọi là tu 
				Định tức là tâm của người tu lúc nào cũng tỉnh giác, không bị 
				các vọng tưởng chi phối làm tiêu trừ tất cả mọi phiền não khổ 
				đau. Vì tâm có định nên người tu có thể tiến thẳng đến Niết bàn 
				tịch tịnh. 
				 
				Khi ấy từ chặng giữa chân mày của Thế Tôn phóng ra các đạo 
				hào quang. Các hào quang ấy sáng chói như trăm ngàn mặt trời, 
				trỗi lên sáu điệu làm chấn động khắp cõi nước Phật. Mười phương 
				cõi nước như số vi trần đồng thời hiện ra. Nhờ oai thần của Phật 
				khiến các thế giới vi trần ấy hợp thành một cõi. Trong các cõi 
				nước ấy, các vị đại Bồ-tát ở nơi quốc độ của mình đều chắp tay 
				lắng nghe lời Phật dạy. 
				  
				Trước khi Đức Thế Tôn 
				thuyết một bài kinh nào tối quan trọng, Ngài thường phóng hào 
				quang sáng ngời làm chấn động mười phương thế giới. Lời thuyết 
				pháp phát xuất từ những tuệ giác sâu xa của Đức Phật và cũng để 
				chứng minh đây là chân ngữ từ trong tuệ giác của Ngài. Mặc dù 
				ánh hào quang sáng chói như trăm ngàn ánh mặt trời, nhưng hào 
				quang của Đức Phật phát xuất từ đại từ, đại bi tâm nên rất thanh 
				tịnh và mát dịu không làm chói mắt chúng sinh. Trong thế gian có 
				khi các loài ma cũng biến hóa thân Phật và phóng hào quang, 
				nhưng thay vì ánh sáng hòa dịu, tươi mát như hào quang của chư 
				Phật làm cho thân tâm thanh tịnh thì hào quang của loài ma chiếu 
				vào làm cho thân tâm bực bội, nóng rát, khó chịu. Vì thế người 
				tu thiền khi đi sâu vào thiền định có thể thấy biết hào quang 
				nào là của chư Phật và hào quang nào là của loài ma đạo. Mặc dù 
				thế giới nhiều như vi trần, nhưng tất cả các vị đại Bồ-tát trong 
				các cõi cùng chắp tay lắng nghe lời Phật dạy. Như thế đủ biết 
				giá trị và tầm quan trọng của kinh Thủ Lăng Nghiêm chẳng những 
				mang lợi ích sâu xa cho chúng sinh trong thế giới Ta bà, mà còn 
				cho tất cả chúng sinh trong muôn vàn thế giới nữa. 
				 
				Đức Phật hỏi A Nan : 
				 
				-    Tất cả chúng sinh từ vô thỉ đến nay, đủ các 
				thứ điên đảo, mầm giống nghiệp tự nhóm lại như chùm quả ác xoa. 
				Những người tu hành không thành được đạo vô thượng Bồ-đề, mà chỉ 
				thành Thanh Văn, Duyên Giác hoặc thành ngoại đạo, chư thiên, ma 
				vương và quyến thuộc của ma. Tất cả đều do không biết hai loại 
				căn bản, tu tập lầm lộn, cũng như nấu cát mà muốn thành cơm, dù 
				trải qua số kiếp nhiều như cát bụi, rốt cùng chẳng được. Thế nào 
				là hai món căn bản? Này A Nan! Một là căn bản sanh tử từ vô thỉ 
				chính là tâm phan duyên mà hiện nay ông cũng như toàn thể chúng 
				sinh nhận làm tự tánh. Hai là nguyên thể thanh tịnh Bồ-đề Niết 
				bàn từ vô thỉ. Đó là cái chân tâm vốn sáng suốt hiện giờ của 
				ông, hiện nay sinh khởi các duyên bị ông lãng quên. Do các chúng 
				sinh bỏ quên tánh bản minh này tuy trọn ngày sử dụng nó mà chẳng 
				tự biết nên bị trôi lăn oan uổng trong các cõi. 
				 
				Con người từ muôn kiếp luôn lặn hụp, trôi nổi trong sinh tử luân 
				hồi cũng vì nghiệp. Có gây nghiệp thì phải chịu thọ báo tái sinh 
				trầm luân sinh tử, đời này tan đời khác đến vô cùng vô tận. 
				Chúng sinh vì sống trong màn vô minh đen tối nên quên mất trong 
				họ đã có sẵn tự tánh Bồ-đề, tự tánh thanh tịnh Niết bàn mà chạy 
				theo ngoại trần làm tâm điên đảo. Càng chạy theo lục dục thất 
				tình, con người càng tạo nghiệp và nghiệp thì chồng chất, kết 
				nhóm chẳng khác nào như chùm cây độc “ác xoa” vì giống cây độc 
				này mỗi khi mọc cây con thì kết ba cây làm một bụi, tăng trưởng 
				rất nhanh và liên kết với nhau nên rất khó tiêu trừ. Chúng sinh 
				bị nghiệp sai sử cũng vì không biết phân biệt hai món căn bản 
				vọng, chân nên ngay cả những người tu hành cũng không thể đắc 
				quả vị vô thượng Bồ-đề tức là quả vị Phật mà tối đa là chứng đắc 
				những Thánh quả trong hàng Thanh Văn, Duyên giác. Hoặc họ có thể 
				thành chư thiên, ngoại đạo mà tệ hại nhất là thành ma vương. Hai 
				món căn bản đó là : 
				 
				1) Chúng sinh vì lầm tưởng tâm phan duyên là tự tánh của chính 
				mình, nhưng tâm phan duyên là cái tâm luôn duyên với trần cảnh 
				bên ngoài mà phát sinh ra vọng thức. Con người có vui, có buồn, 
				có hờn, có giận, có tham, có muốn nghĩa là tâm luôn thay đổi 
				theo duyên cảnh bên ngoài. Ý niệm trước vừa phát sinh thì ý niệm 
				sau liền sinh khởi làm cho con người vui đó, buồn đó… tâm chất 
				đầy vọng tưởng, bất tịnh. 
				 
				2) Thể tánh thanh tịnh Bồ-đề Niết bàn vốn có sẵn trong tất cả 
				mọi chúng sinh. Đó chính là chơn tâm thường trú, thể tánh tịnh 
				minh không thay đổi, bất sinh bất diệt theo không gian, thời 
				gian và lúc nào cũng trong sáng thanh tịnh. 
				 
				Tuy con người đã có sẵn chơn tánh thanh tịnh trong họ, nhưng vì 
				trần cảnh mê hoặc nên họ quên mất mà sống trong điên đảo khổ 
				đau. Ví như một người có viên kim cương trong túi mà không biết, 
				hằng ngày cứ lo buôn tảo bán tần, làm ăn cực khổ, thiếu thốn đủ 
				điều. Bây giờ thức tỉnh thò tay vào túi lấy viên kim cương đem 
				bán thì sẽ được giàu sang phú quý. Con người cũng thế, nếu biết 
				thức tỉnh, biến mê thành giác, diệt hết vô minh phiền não thì 
				Niết bàn tự bày, Bồ-đề hiển hiện. 
				 
				Như thế diệt hết vọng tưởng thì chơn tâm bản giác tự hiện bày, 
				nhưng tất cả đều nương vào năng lực của đại định mà pháp tu
				“Chỉ” Xa-ma-tha 
				làm cho tâm người tu lúc nào cũng tỉnh giác nên không còn bị các 
				vọng tưởng chi phối mà tiêu trừ tất cả mọi phiền não khổ đau. 
				 
				Phật Gạn Hỏi Tâm Lần Thứ Hai 
				 
				A Nan! Nay ông muốn biết con đường tu tập thiền định, ước nguyện 
				được thoát ly sinh tử, nay ta hỏi ông : 
				 
				Phật liền đưa cánh tay sắc vàng lên co lại năm ngón và hỏi A Nan 
				rằng : 
				- Ông có thấy không? 
				 
				A Nan thưa : 
				- Bạch Thế Tôn! Con 
				thấy. 
				 
				Đức Phật hỏi : 
				- Ông thấy cái gì? 
				 
				A Nan đáp : 
				- Con thấy Như Lai đưa 
				cánh tay lên và co năm ngón lại thành nắm tay sáng chói chiếu 
				vào tâm và mắt của con. 
				 
				Đức Phật hỏi : 
				- Ông lấy cái gì để 
				thấy? 
				 
				A Nan thưa : 
				- Cả đại chúng và con 
				đều thấy bằng mắt. 
				 
				Đức Phật bảo A Nan : 
				- Như ông vừa trả lời, 
				cho rằng Như Lai co năm ngón lại thành nắm tay sáng chói chiếu 
				vào mắt và tâm của ông. Mắt ông có thể thấy được, nhưng ông lấy 
				gì làm tâm để cho nắm tay sáng chói chiếu vào? 
				 
				A Nan Chấp Cái “Suy Nghĩ Phân Biệt” là Tâm 
				 
				A Nan thưa : 
				- Bạch Thế Tôn! Như Lai 
				gạn hỏi tâm ở chỗ nào, con dùng tâm suy nghĩ để trả lời, thì rõ 
				là cái suy nghĩ ấy là tâm của con vậy. 
				 
				Phật quở : 
				- Này A Nan! Sai rồi. 
				Cái suy nghĩ ấy không phải là tâm của ông. 
				 
				A Nan hoảng hốt, đứng dậy thưa Phật : 
				- Bạch Thế Tôn! Cái suy 
				nghĩ, phân biệt không phải là tâm con, vậy nó là cái gì? 
				 
				Phật bảo : 
				- A Nan! Đó là sự tưởng 
				tượng những tướng tiền trần giả dối, nó làm mê mờ chân tánh của 
				ông. Do từ vô thỉ đến nay, ông nhận giặc này làm con, bỏ mất tâm 
				tánh bản lai thường trú nên phải chịu luân hồi. 
				 
				Chúng sinh thường hay quan niệm rằng mắt, tai, mũi, lưỡi, thân 
				là năm căn vật chất căn bản tạo thành con người. Còn cái tác 
				dụng của tư tưởng để có sự phân biệt suy nghĩ mà con người không 
				nắm bắt được thì gọi là tâm mà nhà Phật gọi là ý thức. Sau bảy 
				lần gạn hỏi về ý nghĩa của bản tâm và nó ở đâu, bảy lần bị Phật 
				bác mà ông A Nan vẫn chưa ngộ nên tiếp tục cho rằng vì mắt thấy 
				mà sinh ra sự phân biệt suy nghĩ. Và chính sự phân biệt suy nghĩ 
				này là tâm của A Nan. Một lần nữa, ông A Nan đại diện cho chúng 
				sinh, đóng vai trò một người có quan niệm nhận thức thông thường 
				để cùng Phật luận bàn tìm hiểu cái tâm. Vì vẫn còn mê, ông A Nan 
				lại chấp tâm vọng tưởng, tâm phan duyên sinh diệt biến đổi là 
				chơn tâm. Sau khi bị Phật bác bảy lần mà ông A Nan không thông 
				hiểu rằng tất cả những ý niệm phân biệt suy nghĩ luôn thay đổi 
				mà kinh Phật thường dùng câu: “tâm viên mã ý” đó sao; vì thế cái 
				tâm quay cuồng, thay đổi chạy theo trần cảnh, sinh diệt lúc có 
				lúc không thì cái tâm này đâu phải là chơn tâm! Cái mà ông A Nan 
				lầm tưởng là chơn tâm thật ra chỉ là tâm phan duyên của lục thức 
				mà thôi. 
				Chính cái thức tâm này làm 
				mê mờ chân tánh khiến ông bị trầm luân trong sinh tử luân hồi 
				chẳng khác nào nhận giặc làm con, vô cùng tai hại. Chẳng hạn như 
				có kẻ nghèo, mắt thấy một người có rất nhiều vàng bạc, tâm tham 
				liền khởi dậy thúc đẩy họ trở thành người trộm cướp. Do đó cái 
				tâm tham này chính là vọng tâm điên đảo thay đổi tùy theo hoàn 
				cảnh và thời gian chớ không thường trụ, bất biến và lúc nào cũng 
				thanh tịnh như chơn tâm, Phật tánh. Khi mê thì thấy có chúng 
				sinh, có Bồ-tát, có Phật đến khi giác ngộ thì tất cả đều là 
				Phật. Tại sao? Chúng sinh vì tìm Phật bên ngoài tức là thấy Phật 
				qua hình tướng sinh diệt chớ không thấy được bản tâm của chính 
				mình, đến khi thức tỉnh giác ngộ biết lìa bỏ hình tướng sinh 
				diệt bên ngoài mà quay về sống với thật tướng bất sinh bất diệt 
				bên trong thì nghiệm biết tâm mình chính là tâm Phật. Khi tâm 
				không duyên theo những ngoại trần (tiền trần) nên những ý niệm 
				thương yêu, ghen ghét, tham lam, giận hờn, hơn thua, phải quấy… 
				sẽ không còn dấy khởi. 
				Bây giờ thức tâm, tâm vọng 
				động biến mất và chơn tâm thanh tịnh sẽ hiện bày. Nếu chúng sinh 
				biết dựa theo chơn tâm tức là tâm vô phân biệt mà tu hành thì 
				chắc chắn sẽ có giải thoát giác ngộ. Ngược lại nếu chúng sinh 
				dựa theo tâm phan duyên mà tu hành thì những hạnh nghiệp sẽ dẫn 
				dắt họ lưu chuyển trong sinh tử luân hồi. Ngày xưa vua Lương Võ 
				Đế xây cất trên 480 ngôi chùa và độ cho rất nhiều Tăng, Ni, 
				nhưng trên thực tế nhà vua chỉ dùng tâm phan duyên để làm phước 
				chớ có quay về với chơn tâm thanh tịnh để tu hành đâu mà có công 
				đức. Mà cho dù nhà vua có tạo phước đức to lớn như núi Tu di đi 
				chăng nữa, cũng vẫn quay cuồng trong lục đạo như thường. 
				 
				A Nan bạch Phật rằng : 
				 
				- Bạch Thế Tôn! Con là em của Phật, vì tâm kính yêu Phật nên con 
				xuất gia. Tâm con chẳng những cúng dường Như Lai mà còn trải qua 
				nhiều quốc độ như cát sông Hằng, phụng sự thiện tri thức; phát 
				tâm đại dũng mãnh, làm tất cả những pháp sự khó làm, đều dùng 
				cái tâm này. Giả sử con có hủy báng Phật pháp, rời bỏ thiện căn, 
				bất tín tam bảo, cũng chính tâm này. Nay Đức Phật chỉ rõ cái ấy 
				không phải là tâm thì chẳng lẽ con không có tâm, như gỗ như đá, 
				vì ngoài cái suy nghĩ hay biết ấy ra, con chẳng còn gì khác nữa. 
				Sao Như Lai lại bảo cái đó chẳng là tâm? Con thật kinh sợ và 
				trong đại chúng ai cũng nghi hoặc điều đó. Cúi xin đức Từ Tôn rủ 
				lòng từ bi chỉ dạy cho những người chưa được giác ngộ. 
				 
				Bấy giờ, Đức Thế Tôn chỉ dạy A Nan và cả đại chúng, muốn cho họ 
				được vô sanh pháp nhẫn. 
				 
				Từ nơi tòa sư tử, đức Phật xoa đầu A Nan và bảo : 
				 
				- Như Lai thường nói các pháp sanh đều do tâm biểu hiện. Tâm là 
				cái thể của tất cả thế giới vi trần, của mọi nguyên nhân và kết 
				quả. 
				  
				- A Nan! Như tất cả sự 
				vật hiện hữu trong thế giới lớn như biển cả, núi cao, nhỏ như là 
				cây, ngọn cỏ… khi gạn xét cội gốc của nó, mỗi thứ đều có thể 
				tánh. 
				Ngay cả đến hư không 
				cũng còn có tên và dáng mạo. Huống gì bản tâm sáng suốt thanh 
				tịnh nhiệm mầu và là bản chất của mọi tâm niệm mà tự nó lại 
				không có thể tánh hay sao? 
				 
				- Nếu ông quả quyết cho cái tánh hiểu biết, cái suy nghĩ phân 
				biệt là tâm của ông thì tâm này khi rời khỏi sắc, thanh, hương, 
				vị, xúc ra, nó phải còn tính độc lập riêng của nó tồn tại. Như 
				hiện giờ ông đang nghe tôi nói pháp, đó là nhân âm thanh mà có 
				phân biệt. Nếu không nghe tiếng thì sự phân biệt của ông không 
				còn. Giả sử diệt hết cái thấy, nghe, ngửi, nếm, xúc, biết, chỉ 
				nắm giữ cái u nhàn lặng lẽ bên trong, thì đó cũng là sự phân 
				biệt bóng dáng pháp trần mà thôi. 
				 
				- A Nan! Chẳng phải tôi bảo ông phủ nhận cái tính tư duy phân 
				biệt ấy không phải là tâm, nhưng ông phải suy nghĩ chín chắn: 
				Rời tiền trần mà vẫn còn cái biết thì đó mới thật là tâm của 
				ông. Nếu tánh phân biệt này khi rời hẳn tiền trần mà không còn 
				tự thể thì đó chỉ là bóng dáng phân biệt của tiền trần. Tiền 
				trần không phải là thường trụ, khi thay đổi diệt mất đi rồi thì 
				cái tâm nương theo tiền trần ấy khi cũng như lông rùa, sừng thỏ. 
				Thế thì pháp thân của ông cũng thành đoạn diệt, còn gì mà tu 
				chứng vô sanh pháp nhẫn! 
				 
				Lúc ấy A Nan cùng toàn thể đại chúng chưa nhận rõ thế nào là 
				chơn tâm thường trú nên lòng còn bối rối ngẩn ngơ. 
				Đức Phật bảo A Nan : 
				 
				- Trong thế gian những người tu học tuy đã được chín thứ thiền 
				định, nhưng không diệt hết được mê lầm chỉ thành A la hán, đều 
				do chấp nhầm vọng tưởng sanh tử này là chân thực. Thế nên, ông 
				nay tuy học rộng nghe nhiều mà vẫn không thành chánh quả. 
				 
				Ông A Nan lại chấp lầm tâm vọng tưởng phan duyên của thức thứ 
				sáu tức là ý thức làm chân tâm. Đoạn kinh này rất hay nếu chúng 
				sinh suy nghiệm thật kỹ, bởi vì con người có nhận biết được tất 
				cả những hiện tượng bên ngoài cũng bởi do ý thức. Âm thanh sắc 
				tướng làm tâm phân biệt mà tạo thành ý niệm. Nhưng ý niệm thì 
				sinh sinh diệt diệt, ý niệm sau liền thay thế ý niệm trước làm 
				cho con người suy nghĩ triền miên và đây chính là cội rễ của 
				phiền não khổ đau. Khi nói sai, ông A Nan liền bị Phật quở trách 
				nên sợ hãi ngơ ngác. Đức Thế Tôn thương xót bèn lấy tay xoa đầu 
				an ủi và nói sơ về cái chơn tâm cho A Nan. Tuy đức Phật nói các 
				pháp sanh ra đều do tâm biểu hiện, cũng 
				như tất cả nhân quả, y báo, 
				chánh báo của thế gian đều nhờ tâm mà có, nhưng tâm này là chơn 
				tâm chớ đâu phải vọng tâm điên đảo như ông A Nan đã nói. Thật 
				vậy, khi đã thấu triệt thật tướng vô tướng của vũ trụ thì tất cả 
				vạn pháp trên thế gian này đều từ tâm biến hiện. Nếu một người 
				có tâm ác thì đối với họ thế giới họ sống là một thế giới tội 
				lỗi xấu xa, ghê rợn. Ngược lại, nếu một người có tâm thiện thì 
				cũng thế giới này, đối với họ là một thiên đường, là cảnh thanh 
				bình an vui tự tại. 
				Vì thế trong Kinh Duy Ma 
				Cật cũng dạy rằng : “Tùy kỳ tâm tịnh tắc Phật độ tịnh” nghĩa là 
				một khi tâm chúng sinh được thanh tịnh thì thế giới họ đang sống 
				là cõi thanh tịnh, cực lạc. Trong Kinh A Di Đà, Phật cũng dạy 
				rằng nếu chúng sinh niệm Phật đến chỗ nhất tâm bất loạn nghĩa là 
				niệm Phật cho đến khi tâm vọng tưởng, phân biệt, chấp trước biến 
				mất và chơn tâm, Phật tánh hiện bày thì người này sẽ được vãng 
				sanh về cõi cực lạc. Vãng sanh về cõi cực lạc không có nghĩa là 
				đợi đến lúc chết Phật A Di Đà đến tiếp dẫn về tây phương mà vãng 
				sanh là người đó vẫn sống trong thế giới Ta bà này như trăm ngàn 
				chúng sinh khác nhưng cuộc sống của họ đã thay đổi vì tâm họ 
				hoàn toàn thanh tịnh, sáng suốt, không còn ô nhiễm và dĩ nhiên 
				dưới ánh mắt họ, thế giới này chính là cõi cực lạc rồi, bởi vì 
				cực lạc là không có phiền não khổ đau. Vì thế mới có câu : “Lục 
				tự Di Đà vô biệt niệm, hoa khai kiến Phật ngộ vô sanh” nghĩa là 
				niệm sáu chữ Di Đà đến chỗ không còn niệm thì lúc đó tâm mình 
				biến thành tâm Phật và sẽ không còn tái sinh, sinh tử luân hồi 
				nữa. Do đó thế giới cực lạc không ở ngoài tâm mà chính là do tâm 
				biến hiện. Chính ngài Mã Tổ đại sư mỗi lần lên pháp tòa đều nói 
				rằng : “tức tâm tức Phật” nghĩa là Phật không ở ngoài tâm bởi vì 
				tâm mình (chơn tâm) chính là Phật. 
				 
				Tất cả mọi vật trên thế giới này dù to nhỏ tới đâu cũng đều có 
				thể tánh, ngay cả hư không cũng có tên gọi và tướng mạo. Nếu 
				chúng sinh dựa vào sự tướng mà quan sát tất cả mọi vật thể trên 
				thế gian thì có hình tướng lớn nhỏ, nặng nhẹ, màu sắc, hương vị 
				khác nhau, nhưng tất cả cũng đều chung một thể tánh bất sinh bất 
				diệt. Vì thế cái tâm sáng suốt thanh tịnh mầu nhiệm là tánh của 
				tất cả tâm thì phải có thể tánh. Lý do Phật quở là vì ông A Nan 
				chấp vọng tưởng phân biệt làm chân tâm mà không biết rằng chơn 
				tâm luôn có thể tánh. 
				 
				Nếu ông A Nan cứ chấp chặt vọng tưởng phân biệt là chơn tâm thì 
				nó phải có, phải hiện hữu cho dù lục căn không còn tiếp xúc với 
				lục trần. Thí dụ, khi chúng ta không còn thấy biết âm thanh sắc 
				tướng bên ngoài tức là trong ta không có ý thức, vọng niệm dấy 
				khởi mà ông A Nan vẫn nghiệm biết được thì cái tâm hay biết này 
				mới là chơn tâm. Cũng như Đức Phật đang thuyết pháp thì tai ông 
				A Nan nghe nghĩa là cái nghe là do bởi lời thuyết pháp của Phật, 
				bây giờ nếu Phật dừng lại không nói nữa tức là nếu từ miệng Phật 
				không phát ra âm thanh thì tâm của A Nan cũng không còn ý niệm 
				phát khởi. Rõ ràng đây chính là tâm phan duyên với ngoại trần, 
				là tâm vọng tưởng phân biệt của thức thứ sáu chớ đâu phải chơn 
				tâm. Bởi vì tâm vọng tưởng luôn chạy theo trần, trần có thì tâm 
				có, trần mất thì tâm cũng diệt. 
				 
				Tiếp theo Phật lại dạy rằng chẳng những ý thức tức là thức thứ 
				sáu là giả dối, hư vọng mà ngay cả thức thứ bảy là Mạt-na-thức 
				cũng chẳng phải thật. Ý Phật muốn dạy rằng không chỉ vọng tưởng 
				phân biệt của thức thứ sáu là hư dối, mà dù ông A Nan có diệt 
				hết mọi “thấy nghe hay biết” tức là sáu căn không hoạt động, 
				nhưng sự yên lặng bên trong tức là vi tế tưởng (ý thức cực nhỏ) 
				cũng là bóng dáng phân biệt của pháp trần. Đây chính là thức thứ 
				bảy chấp có cái ta bên trong của mình và nó chính là nền tảng 
				của ý thức. Mà ý thức là cội gốc của sinh tử thì làm sao là chơn 
				cho được. Tà môn ngoại đạo cũng dùng thiền định để loại bỏ tất 
				cả ý thức ngay cả vi tế tưởng trong tâm để chứng đắc Niết bàn. 
				Nhưng có một điều họ không biết đó là cho dù có loại bỏ ngay cả 
				vi tế tưởng để vào cảnh giới vô tưởng thì họ vẫn nằm trong vi tế 
				của bản tâm tức là họ chưa ra khỏi tâm phan duyên. Mà chưa có 
				chơn tâm thì làm sao có Niết bàn? Do đó cả đời tu mà chưa nghiệm 
				được chơn tâm để có thanh tịnh Niết bàn cho dù có cố gắng thiền 
				định cao cách mấy thì ngoại đạo cũng chỉ được sinh về các cõi 
				trời để hưởng phước lạc chứ chưa thoát ra khỏi sinh tử luân hồi. 
				 
				Tóm lại, nếu lìa trần cảnh mà có thể tánh thì mới là chơn tâm. 
				Còn nếu lìa Trần mà không có Thể thì khi Trần diệt lẽ ra tâm 
				cũng diệt theo thì làm sao đúng được. Lý luận như vậy chẳng khác 
				nào cho rằng pháp thân là sinh diệt nên khi A Nan bị phá cái 
				vọng tưởng không thật làm cho ông mất đi chỗ quay về nên im lặng 
				ngơ ngác. Thí dụ như mắt nhìn thấy một chiếc xe đang chạy, tâm 
				liền phân biệt để biết đó là chiếc xe. Bây giờ chiếc xe khác 
				chạy đến làm tâm lại phân biệt. Tâm thay đổi, không thường trụ 
				thì đây chính là tâm phan duyên, sinh sinh diệt diệt. Như thế, 
				tánh phân biệt không có tự thể. Bởi vì nếu có tự thể thì tự nó 
				phải thường có không cần phải duyên với trần cảnh bên ngoài. 
				Vì thế nếu dựa vào cái tâm 
				phan duyên mà tu thì làm sao thấy được pháp thân và chứng đắc vô 
				sanh pháp nhẫn để giải thoát ra khỏi sinh tử luân hồi. Chúng 
				sinh tham thiền, niệm Phật là muốn diệt cái tâm vọng tưởng, tâm 
				phan duyên để thấy được tự tánh thanh tịnh bản nhiên, pháp thân 
				hay chơn tâm thường trú của chính mình mà có được giải thoát 
				giác ngộ. Tuy những người tu đã thành tựu chín thứ thiền định 
				nếu vẫn còn chấp vọng tưởng là chân thật thì tối đa chỉ thành A 
				la hán. Bởi vì các vị A la hán chỉ diệt lục thức mà được ra khỏi 
				tam giới, lìa xa sinh tử nhưng chưa thấu suốt được thật tướng, 
				chơn tâm. Vì thế giáo lý Tứ Diệu Đế, Thập Nhị Nhân Duyên của 
				hàng Thanh Văn, Duyên Giác được gọi là giáo lý phương tiện hay 
				bất Liễu nghĩa. Chỉ có giáo lý Đại thừa mới là giáo lý Liễu 
				nghĩa tức là giáo lý đưa chúng sinh chứng nghiệm được chơn tâm, 
				thật tướng của chính mình. Đây chính là giáo lý tối thắng Đại 
				thừa vậy. 
				 
				Vậy thế nào là chín thứ thiền định? 
				 
				1) Sơ thiền : Khi hành giả phá được tất cả tham-sân-si và dập 
				tắt lửa ái dục thì vào được cõi này. 
				 
				2) Nhị thiền : Sau khi diệt tất cả ái dục thì tâm được vui, bây 
				giờ hành giả phải vào sâu trong thiền định để phá cái vui này để 
				chỉ còn cái vui vi tế mà thôi. 
				 
				3) Tam thiền : Hành giả cố gắng vào sâu trong thiền định để loại 
				luôn cái vui vi tế để tâm hoàn toàn an 
				tịnh. 
				 
				4) Tứ thiền : Khi niệm vừa dấy lên thì hành giả dùng thiền quán 
				mà xả bỏ luôn. 
				 
				Nếu chúng sinh thành tựu bốn cấp thiền ở trên, khi chết sẽ được 
				sanh về cõi trời Sắc giới. 
				 
				5) Không vô biên xứ : Từ trống không nhỏ đến trống không lớn và 
				dần dần đến vô cùng vô tận. 
				 
				6) Thức vô biên xứ : Thức phân biệt không có tướng mạo nên quán 
				từ thức phân biệt thân đến phân biệt tâm và dần dần ra khắp hết 
				vô cùng vô tận. 
				 
				7) Vô sở hữu xứ : Tưởng thân tâm không có gì hết, rỗng tuếch 
				không chỗ nơi thì chứng được. 
				 
				8 )Phi tưởng phi phi tưởng xứ : Sau cùng đến chỗ không có ý 
				tưởng mà không phải không có ý tưởng. 
				 
				Nếu chúng sinh đạt được bốn cấp thiền tứ không định này thì khi 
				chết sẽ sanh lên cõi trời vô sắc giới. 
				 
				9) Diệt tận định : Đây là cấp thiền định dành riêng cho hàng 
				Thánh giả A la hán. Khi các vị A la hán sắp xả bỏ xác thân tứ 
				đại thì các ngài nhập vào Diệt tận định trong một thời gian bảy 
				ngày bảy đêm. Trong khoảng thời gian này, các ngài rất an vui tự 
				tại và các ngài lần lượt đi sâu vào tứ thiền, tứ không định và 
				sau cùng đi vào diệt tận định. Định này không những diệt hết các 
				Tâm vương (tám thức) và Tâm sở (51 món) của 6 thức mà nó diệt 
				luôn cả phần tạp nhiễm của Tâm vương, Tâm sở của thức thứ bảy, 
				Mạt-na-thức. 
				 
				Lý do Đức Phật đưa ra chín cấp thiền là muốn nhắn nhủ rằng, mặc 
				dù ông A Nan là người học rộng nghe nhiều mà không hành trì pháp 
				thiền na thì tâm tham-sân-si không tiêu diệt được. Tham-sân-si 
				còn thì vọng tưởng còn, nếu lấy tâm vọng tưởng, tâm sinh diệt mà 
				tu thì mãi mãi trôi nổi trong sinh tử luân hồi không bao giờ 
				thành chánh quả cũng như xây nhà trên cát, nền móng không vững 
				chắc, thì làm sao xây được căn nhà giải thoát giác ngộ. 
				  
				A Nan Cầu Phật Chỉ Dạy 
				Phương Pháp Tu Hành Lần Thứ Ba. 
				 
				A Nan nghe xong, đau xót khóc lóc, gieo năm móc sát đất, quỳ 
				xuống chắp tay bạch Phật : 
				 
				- Từ khi con phát tâm theo Phật xuất gia, thường ỷ lại lòng 
				thương của Phật, tự nghĩ rằng rồi đây Như Lai sẽ ban cho tam 
				muội, chia sớt đạo quả cho. Giờ đây mới biết: Thân tâm không ai 
				có thể thay thế cho ai. Từ lâu con đã đánh mất bản tâm của con 
				rồi. Thân tuy xuất gia mà tâm chưa vào đạo. Như đứa con hoang 
				cùng khổ, bỏ cha bỏ nhà ra đi. Ngày nay mới biết, tuy được nghe 
				Phật pháp nhiều mà không tu hành thì chẳng khác gì người không 
				nghe. Như người chỉ nói đến thức ăn, rốt cuộc chẳng được no 
				bụng. 
				Kính bạch Thế Tôn! Nay chúng con bị trói buộc bởi hai thứ chướng 
				ngại, do chẳng biết tâm tánh vốn thường hằng vắng lặng. Cúi mong 
				Như Lai thương xót kẻ nghèo cùng rách rưới, phát minh cho cái 
				tâm nhiệm mầu, sáng suốt và khai mở con mắt đạo cho chúng con. 
				 
				Những lời nói chân tình của A Nan, một người đã theo chân Đức 
				Phật suốt 27 năm ròng mà không đạt được đạo cũng vì ông sống 
				bằng tâm ỷ lại, tâm phan duyên chớ không quay về với chơn tâm, 
				thật tướng bên trong chính mình. Tuy thân tướng là người xuất 
				gia mà tâm chưa vào đạo, chạy theo sắc tướng âm thanh, thị phi 
				nhân ngã làm tâm bất tịnh. Tu là tu tâm chớ đâu phải tu cảnh. 
				Không có một người nào trên thế gian, ngay cả Đức Phật có thể 
				làm cho tất cả mọi người hài lòng, thỏa mãn được. Tại sao? Vì 
				bản năng con người luôn chạy theo tham đắm lợi danh, làm nô lệ 
				cho lục dục thất tình thì biết bao giờ cho đủ, biết bao nhiêu 
				cho vừa, nên người tu hành chân chính chỉ biết giữ tâm mình 
				thanh tịnh bằng cách tránh xa thị phi nhân ngã. Đừng đem những ô 
				nhiễm bên ngoài đưa vào trong tâm, chuyện thế gian mà rốt cuộc 
				mình lại là người đeo mang hệ lụy phiền não khổ đau. 
				Những lời thức tỉnh của ông 
				A Nan hy vọng sẽ là tiếng chuông vang dội trong tâm cho những 
				chúng sinh còn mê muội tin rằng Đức Phật là đấng thần linh sẽ 
				ban bố ân sủng nếu họ cầu nguyện. Nên nhớ Đức Phật Thích Ca Mâu 
				Ni chỉ là một đạo sư, là một vị thầy cao cả đã soi đuốc trí tuệ 
				để giúp chúng sinh tự mình vượt qua sông mê bể khổ. Chúng sinh 
				phải tự mình hồi đầu thị ngạn chớ Phật không ra bể khơi để đưa 
				họ vào bờ. Trong Phật giáo, ai tu người ấy chứng, không có ai tu 
				thế cho người khác được. Nói cách khác, một người ăn thì người 
				khác không thể no được. Nếu có giúp đỡ chăng thì chỉ làm tăng 
				thượng duyên, mà nhân duyên phải là tự lực của chính mình. 
				Đây là lần thứ hai ông A 
				Nan từ khi thoát nạn dâm nữ Ma đăng già nên đã thức tỉnh mà tự 
				hối rằng sự tu hành không thể ỷ lại tha nhân, dù tha nhân đó là 
				Đức Phật. Đạo Phật là con đường giúp chúng sinh tự mình giải 
				thoát giác ngộ thì càng không có việc ban bố ân sủng hay phong 
				thưởng trong tiến trình hướng về đạo quả Bồ-đề. Do đó, ai ăn 
				người ấy no, ai tu người ấy chứng thì sự tu hành không có ai ban 
				bố cho ai cái gì được vì đó là mâu thuẩn với quy luật nhân quả 
				khách quan của nhân sinh vũ trụ. Vì thế học Phật cốt ở thực hành 
				cho nên học mà không hành chẳng khác nào nói ăn mà không ăn, 
				không bao giờ no được. 
				 
				Ngày xưa trên hội Linh Sơn, Phật đưa ra cành hoa sen và đồng 
				thời đưa mắt nhìn đại chúng. Lúc đó ai cũng phân vân nghĩ ngợi 
				tức là chạy theo tâm phan duyên duy chỉ có một mình Tôn giả Đại 
				Ca Diếp là chúm chím mỉm cười. Liền đó, Phật bảo : “Ta có Chánh 
				pháp Nhãn tạng, Niết bàn Diệu tâm… truyền cho Ca Diếp”. Đó là 
				Phật truyền tâm ấn cho Ca Diếp. Vậy truyền tâm ấn là truyền cái 
				gì? Khi một vị Tăng thọ cụ túc thì được nhận y, bát. Do đó có sư 
				phụ trao và người đệ tử tiếp nhận y, bát thì gọi là truyền. 
				Nhưng trong trường hợp của Ngài Ca Diếp, Phật nói truyền mà thật 
				ra chẳng có cái gì để truyền cả. Tại sao? Trước hết chữ “ấn” có 
				nghĩa là in. Thí dụ con dấu thế nào thì in ra như vậy, không sai 
				khác. Khi Đức Phật đưa cành hoa sen lên cốt là để chỉ cho đại 
				chúng cái “thấy biết” chân thật của mình chớ không phải vọng 
				kiến, ý thức suy nghĩ. Tất cả đại chúng ngơ ngác vì tâm họ đang 
				quay cuồng suy nghĩ, chỉ có Đại Ca Diếp là tự nhiên mỉm cười vì 
				ông thấy sao biết vậy, không cần suy nghĩ vẩn vơ. Trong pháp hội 
				lớn như vậy mà chỉ có hai thầy trò là tâm đầu ý hợp nghĩa là tâm 
				của thầy và tâm của đệ tử thông cảm nhau không khác. Do đó hai 
				người đồng quan niệm với nhau, tâm người này và tâm người kia 
				giống nhau thì gọi là truyền giao tâm ấn chớ Phật đâu có truyền 
				giao cho ông Ca Diếp cái gì. 
				 
				Tổ Hoàng Bá dạy rằng : “Nhiều người chỉ học biết để ngộ theo 
				Giáo Pháp, mà không biết tới Tâm Pháp, nên dù đến vô số kiếp 
				cũng không đạt được Phật đạo. Cho nên chỉ cần hiểu rõ Tâm này 
				thì không cần phải đi tìm Pháp nào khác, vì Tâm tức Pháp”. Khi 
				nói về Pháp, Tổ Lâm Tế giảng rằng : “Pháp là tâm pháp. Tâm pháp 
				không hình, thông suốt mười phương, hiện dụng trước mắt. Người 
				tin không đến, bèn nhận danh, nhận cú, hướng vào danh tự tìm 
				cầu, lấy ý để suy xét Phật pháp, thật cách xa như trời với đất”. 
				Nghe thế có vị tăng hỏi : “Thế nào là chân Phật, chân Pháp, chân 
				Đạo?”. Tổ đáp : “Phật là tâm thanh tịnh, Pháp là tâm sáng suốt, 
				Đạo là mỗi chỗ không chướng ngại. Tuy ba mà một, đều là danh từ 
				suông, không thật có”. 
				 
				Ngày nay rất nhiều người bày vẽ như vào phòng kín truyền tâm ấn, 
				gây mê tín dị đoan, làm những việc trái đạo lý. 
				 
				Phật Chỉ Cái “Thấy” Thường Còn 
				 
				Khi ấy từ chữ vạn trên ngực Như Lai phóng ra hào quang báu, 
				ánh sáng rực rỡ với trăm ngàn màu sắc, chiếu sáng khắp mười 
				phương thế giới chư Phật, nhiều như số vi trần. Hào quang ấy rót 
				xuống trên đảnh Như Lai ở các cõi Phật trong khắp mười phương, 
				xoay về soi đến A Nan và toàn thể đại chúng. Rồi đức Phật bảo A 
				Nan : 
				 
				- Nay Như Lai vì ông dựng lập pháp tràng lớn khiến cho tất cả 
				chúng sinh khắp mười phương đạt được tâm tánh trong sạch, sâu 
				kín nhiệm mầu và đạo nhãn thanh tịnh. 
				 
				- A Nan! Trước đây ông trả lời rằng thấy nắm tay chói vàng. Vậy 
				nắm tay này nhân đâu mà có? Làm sao nắm tay trở nên sáng chói? 
				Ông lấy cái gì để thấy? 
				 
				A Nan thưa : 
				 
				- Cái nắm tay là do bàn tay Phật co các ngón tay lại. Con thấy 
				cái nắm tay là do con mắt của con. 
				 
				Phật bảo A Nan : 
				 
				- Nếu không có bàn tay thì không có nắm tay. Nếu không có con 
				mắt (bị mù) thì không có cái thấy. Hai sự việc đó có giống nhau 
				chăng? 
				 
				Bạch Thế Tôn! Đúng vậy. Nếu không có bàn tay thì không có nắm 
				tay; nếu không có con mắt thì không có cái thấy. 
				Phật bảo A Nan : 
				 
				- Ông nói như vậy là không đúng. Tại sao? Không có bàn tay thì 
				dĩ nhiên không có nắm tay, chứ không có con mắt (đui) không phải 
				hoàn toàn không thấy. Ông ra đường thử hỏi những người mù mắt : 
				”Ông thấy gì không?” Các người ấy sẽ trả lời: “Nay tôi chỉ thấy 
				một màn đen trước mắt, ngoài ra không thấy gì khác”. Lấy nghĩa 
				đó mà suy nghĩ thì người mù thấy màn đen tối phía trước, chớ cái 
				thấy của họ đâu có thiếu mất. 
				 
				A Nan thưa : 
				 
				- Cái duy nhất mà người mù có thể thấy được trước mắt là màu tối 
				đen, sao có thể gọi là tối được? 
				 
				Ánh sáng rực rỡ với trăm ngàn màu sắc là biểu trưng cho trí tuệ. 
				Chữ vạn trên ngực Đức Phật tượng trưng cho sự kiết tường, cho 
				lòng từ bi và trí tuệ vô cùng vô lượng của Ngài. Sự xoay vần có 
				nghĩa là Phật lực phát tỏa khắp mười phương và ánh sáng trí tuệ 
				của Ngài tỏa khắp để giúp chúng sinh đánh tan mọi vô minh phiền 
				não, giải thoát ra khỏi sinh tử triền miên. Ánh sáng soi khắp 
				thế giới mười phương chư Phật và soi chiếu khắp đảnh chư Như 
				Lai; sau đó xoay về chiếu lên đảnh ông A Nan cùng đại chúng. 
				Ngài dùng trí tuệ giác mà khai thị cho đại chúng, ông A Nan và 
				chúng sinh trong mười phương thế giới thấu triệt cái bản tâm bất 
				sinh bất diệt và đạo nhãn thanh tịnh sâu kín nhiệm mầu. 
				 
				Ông A Nan cho rằng không có bàn tay thì không có nắm tay cũng 
				giống như người mù không có mắt thì không thể thấy được vật thể 
				bên ngoài. Mới nghe qua thấy có lý, nhưng trên thực tế lý luận 
				này là sai. Tại sao? Người mù tuy mắt không còn thấy được vật 
				thể bên ngoài, nhưng tánh thấy của họ đâu có mất. Họ vẫn thấy 
				được mầu đen chớ đâu phải không thấy biết cái gì. Nếu không có 
				tánh thấy thì người mù sẽ trả lời tôi không còn thấy biết cái 
				gì, nhưng tánh thấy đâu có mất nên người mù vẫn còn thấy màu 
				đen. Không thấy hình thể là mắt bị hư chớ tánh thấy đâu có mất. 
				Đó là căn bị mù không thể tiếp xúc với tiền trần chớ tánh thấy 
				không bao giờ mất. Vì thế nếu thay mắt khác thì họ sẽ thấy ngay. 
				Do đó sự lầm lẫn của ông A Nan về cái thấy là mắt hay là tâm? 
				
				
				 |  
				 |