|   Phật bảo A Nan: 
				 
				- Dù ông ngộ được tâm tánh bản giác nhiệm mầu sáng suốt, không 
				phải nhân duyên, không phải tự nhiên, nhưng ông còn chưa rõ tâm 
				tánh sinh ra do hòa hợp hay không hòa hợp. 
				 
				A Nan! Như Lai lại lấy tiền trần để hỏi ông. Nay ông còn lấy tất 
				cả vọng tưởng hòa hợp với tánh nhân duyên trong thế gian mà tự 
				nghĩ lầm rằng chứng được tâm Bồ-đề là do hòa hợp mà phát khởi. 
				Vậy nay tánh thấy thanh tịnh nhiệm mầu của ông là cùng với sáng 
				hòa hợp hay cùng với tối hòa hợp? Là cùng với thông hòa hợp hay 
				cùng với bít hòa hợp? 
				Nếu hòa hợp với sáng, 
				hiện nay ông thấy sáng thì tánh thấy hòa chỗ nào? Tánh thấy và 
				tướng sáng có thể nhận được, còn cái hình trạng “hòa” sẽ ra sao? 
				Nếu tướng sáng ngoài tánh thấy, làm sao thấy được sáng? Nếu 
				tướng sáng là tánh thấy, hóa ra thấy được tánh thấy, còn gì vô 
				lý bằng? Với tướng tối, tướng thông, tướng bít cũng vậy. 
				 
				Lại nữa, A Nan! Hiện nay tánh thấy nhiệm mầu sáng suốt của ông, 
				nó hợp với sáng hay hợp với tối? Hợp với thông hay hợp với bít? 
				Nếu hợp với sáng, đến khi tối tướng sáng mất đi rồi, tánh thấy 
				không còn hợp được với tối, làm sao thấy được tối? Nếu không hợp 
				với tối mà thấy được tối, khi hợp với sáng lẽ ra không thấy được 
				sáng. Đã không thấy được sáng, làm sao hợp với sáng và biết được 
				sáng không phải là tối? Với tướng thông, tướng bít cũng vậy. 
				 
				Đến đây ông A Nan và đại chúng cho dù có thấu hiểu bản tâm thanh 
				tịnh sáng suốt nhiệm mầu không phải là do nhân duyên, cũng không 
				phải là do tự nhiên mà có, nhưng có phải nó được sinh ra do hòa 
				hợp hay không hòa hợp chăng? Hòa hợp có nghĩa thuận hay nghiêng 
				về một phía nào đó. Nếu hòa hợp phía trái thì không thể hòa hợp 
				phía mặt được. Trong phần kinh này nếu hòa hợp với sáng thì 
				không thể hòa hợp với tối hay ngược lại. Và nếu hòa hợp với 
				tướng thông thì không thể hòa hợp với tướng bít được. 
				 
				Trước hết, Đức Phật dùng cảnh vật bên ngoài tức là tiền trần để 
				làm đối tượng. Do đó khi ông A Nan nhìn thấy cảnh vật bên ngoài 
				làm phát khởi sự suy tưởng ở trong tâm. Bây giờ nếu ông A Nan 
				dùng những tư tưởng sinh diệt ấy mà tu để mong chứng được đạo 
				quả Bồ-đề thì đây là một quan niệm sai lầm to lớn vì chạy theo 
				vọng thức là sống với thức tâm tức là sống với tâm vô minh phiền 
				não thì làm gì có an lạc được. Vả lại, nếu tánh thấy hòa hợp 
				được với tướng sáng nghĩa là tánh thấy chỉ thấy được ánh sáng 
				ban ngày, như thế khi màn đêm buông xuống ánh sáng không còn lẽ 
				ra không thấy gì cả nhưng tại sao tánh thấy lại thấy được bóng 
				tối. Nếu tánh thấy vừa thấy được ánh sáng và cũng vừa thấy được 
				bóng tối thì làm sao nói hòa hợp hay không hòa hợp cho được. Vậy 
				tánh thấy chắc chắc vượt ra khỏi cái thấy bình thường của con 
				người vì nó thanh tịnh thông suốt cả mười phương thế giới. Muốn 
				thấy được tánh thấy này, chúng sinh phải buông bỏ tất cả những 
				vọng tâm chấp trước, những cái thấy duyên với bên ngoài để tâm 
				dần dần được thanh tịnh mà có được pháp nhãn thanh tịnh thì tánh 
				thấy thường hằng sẽ hiện bày. 
				 
				A Nan thưa : 
				- Bạch Thế Tôn! Nay tôi 
				lại nghĩ: Tánh thấy nhiệm mầu đối với trần cảnh và các tưởng 
				niệm nhớ nghĩ không hòa hợp chăng? 
				 
				Phật dạy rằng : 
				- Nay ông lại nghĩ rằng 
				tánh thấy không hòa hợp? Tánh thấy ông gọi là không hòa hợp, nó 
				không hòa hợp với sáng hay không hòa hợp với tối? Không hòa hợp 
				với thông hay không hòa hợp với bít? Nếu không hòa hợp với sáng 
				thì giữa tướng sáng và tánh thấy phải có lằn ranh giới. Ông hãy 
				xét kỹ : Chỗ nào là tướng sáng, chỗ nào là tánh thấy? Chỗ nào là 
				ranh giới giữa hai thứ kia? A Nan! Nếu trong tướng sáng không có 
				tánh thấy, tướng sáng và tánh thấy không đến với nhau, tất nhiên 
				tánh thấy sẽ không thấy sáng, làm sao lập ra ranh giới? Đối với 
				tướng tối, tướng thông, tướng bít cũng vậy. Lại nữa, tánh thấy 
				nhiệm mầu không hòa hợp là chẳng hợp với tướng sáng, hay chẳng 
				hợp với tướng tối, chẳng hợp với cái thông hay chẳng hợp với cái 
				bít. Nếu chẳng hợp với tướng sáng thì tánh thấy và tướng sáng có 
				tánh trái nghịch nhau. Ví như lỗ tai và tướng sáng, hoàn toàn 
				không tiếp xúc được nhau. Tánh thấy còn chẳng biết tướng sáng ở 
				đâu thì làm sao phân biệt được nghĩa hợp hay chẳng hợp. Đối với 
				cái tối, cái thông, cái bít kia cũng lại như vậy. 
				 
				Phần trên khi ông A Nan chấp tánh thấy có hòa hợp thì bị Phật 
				bác, trong phần này ông liền chuyển qua không hòa hợp. Trần cảnh 
				và các ý tưởng trong tâm thức đều là vọng thức sinh diệt còn 
				tánh thấy thường hằng bất biến thì làm sao hòa hợp hay không hòa 
				hợp được. Đức Phật lại đưa ra thí dụ rằng nếu tánh thấy và ánh 
				sáng không hòa hợp được thì dĩ nhiên hai bên phải có ranh giới 
				chia đôi nghĩa là tánh thấy và ánh sáng không thể pha trộn lẫn 
				nhau. Nhưng tánh thấy là chân không, vô hình vô tướng thì làm 
				sao phân chia ranh giới với tướng sáng cho được. 
				 
				Trong những đoạn kinh trên, Đức Phật bác các thuyết nhân duyên, 
				tự nhiên và hòa hợp chớ Ngài không bác lý Duyên khởi. Giáo lý 
				Duyên khởi là đạo lý vi diệu thậm thâm của Phật giáo. Bởi vì tất 
				cả mọi sự vật trên thế gian vũ trụ này đều là do hiện tượng 
				trùng trùng duyên khởi mà có. Do duyên khởi mà sự vật có sinh ra 
				(sinh) và cũng do duyên khởi sự vật tiếp tục phát triển tồn tại 
				(trụ). Vì sự vật không có tự tánh nên do duyên khởi phải chịu sự 
				thoái hóa của luật vô thường mà thay đổi (dị) và sau cùng đi đến 
				tiêu diệt (diệt). Do đó khi nói đến sinh và diệt thì nói đến 
				nhân duyên và khi nói đến trụ và dị thì nói đến hòa hợp. Mặc dù 
				sinh, trụ, dị, diệt đều là duyên khởi, là huyển hóa không thật 
				nên Phật mới bác đi các nghĩa nhân duyên, tự nhiên chớ Phật 
				không bác bỏ đạo lý Duyên khởi. Tại sao? Bởi vì tất cả mọi sự 
				vật duyên khởi như huyễn nên khi sinh không có gì thật sự là 
				sinh nên mới gọi là không phải nhân duyên và sự vật duyên khởi 
				không thật có, vì không có tự tánh, nên mới gọi là không phải tự 
				nhiên. Nhưng cái tánh Duyên khởi như huyển, không có tự tánh này 
				lại là chân tánh, là pháp giới tánh, là tánh chân như nhiệm mầu 
				và là tâm tánh chân thật của tất cả mọi chúng sinh. 
				
				
				 |  
				 |