|   Phật dạy rằng: 
				 
				A Nan! Bản thể của hiện tượng vốn chung cùng, do nhơn duyên mà 
				biến hiện. Trong thể tánh không đồng không dị, phân giải sinh ra 
				thành dị. Khác với các dị hóa hợp lại thành đồng. Tánh đồng dị 
				đã phát minh, hai lực hấp dẫn và đề kháng cũng tự thành năng 
				lực. Giữa sự nhiễu loạn mâu thuẫn bên trong của vật lý tâm lý và 
				tánh hư không; những tánh chất năng động hợp thành thế giới, 
				tánh thể bất động là hư không. Hư không là đồng, thế giới là dị. 
				Đồng dị hay không đồng dị, tất cả đều gọi là pháp hữu vi. 
				 
				Bản thể của hiện tượng là Như Lai Tạng thì bao trùm khắp mười 
				phương pháp giới, khắp không gian và khắp cả thời gian. Nó chính 
				là chơn không mà diệu hữu nghĩa là từ cái không trùm khắp mà 
				biến hóa duyên khởi một cách thần diệu, nhiệm mầu để hình thành 
				ra muôn sinh vạn vật của thế giới hữu vi. Nhưng khi duyên hết 
				thì tất cả các đại sẽ thu về với tự tánh ban đầu chớ không có 
				cái gì thật mất. Vì thế không có vật gì là thật sinh hay thật 
				mất mà chỉ là hiện tượng duyên khởi của thế gian vũ trụ trong 
				tiến trình bất biến tùy duyên và tùy duyên bất biến. Nói cách 
				khác, bản thể là chung cùng, nhưng tùy theo nhân duyên mà biến 
				hiện thành ra thế giới hữu vi. 
				Trong chân tâm thường trụ 
				của pháp giới nhất chân vốn không có tướng đồng tướng dị, nhưng 
				vì một niệm vọng động mà biến chân như chuyển theo duyên mà có 
				sinh có diệt, tạo nên A lại da thức. Thí dụ như trong không khí 
				thì tất cả đều giống nhau tức là không đồng không dị, nhưng nếu 
				đem phân tích thì không khí có chứa nào là dưỡng khí, nào là khí 
				Nitrogen, nào là hơi nước, nào là những thứ khí ô nhiễm khác... 
				tức là có đồng có dị rồi. Nên nhớ ngày nay con người dựa theo 
				khoa học mà phân tích những thành phần trong không khí, nhưng 
				2500 trước Đức Phật cũng đã nhìn thấu suốt như vậy thì đủ biết  
				trí tuệ thâm sâu của bậc Đại Giác Ngộ quả thật là bất khả tư 
				nghì. 
				 
				Tánh đồng dị nghĩa là âm dương đối chọi. Có ba trường hợp về 
				tánh đồng và dị : 
				 
				1) Đồng năng tương bội nghĩa là tất cả các đồng cùng trợ lực cho 
				nhau thì sẽ tăng thêm sức mạnh. Thí dụ một người không thể kéo 
				một khúc cây to được, nhưng nếu cộng thêm năm mười người nữa thì 
				việc kéo rất dễ dàng. 
				 
				Dị năng tương để nghĩa là ngược lại của đồng năng tương bội. 
				Mười người đang kéo khúc cây dễ dàng như vậy, bỗng nhiên bốn năm 
				người vì có việc phải đi nên chỉ còn lại 5 người kéo thành thử 
				kéo khúc cây bây giờ rất khó khăn. 
				 
				2) Đồng tánh tương cự nghĩa là cùng giống thì khắc nhau và Dị 
				tánh tương hấp nghĩa là khác giống thì hạp nhau. Thí dụ hai 
				người đàn ông nói chuyện vài phút đã thấy chán sinh ra cãi vã, 
				trong khi một cặp nam nữ nói chuyện suốt ngày. Cũng như cực âm 
				và dương của một cục nam châm. Để hai cực dương hay cực âm gần 
				với nhau thì nó sẽ đẩy ra, nhưng nếu để cực âm gần với cực dương 
				thì nó sẽ hút lại. 
				 
				3) Đồng chủng tương ứng, Dị chủng tương xích nghĩa là cùng loại 
				thì phụ cho nhau nhau và khác loại thì bị khai trừ. Thí dụ cọp 
				chỉ sống với cọp còn bỏ dê hay thỏ vào là bị cọp ăn sống ngay. 
				 
				Vì thế trong Như Lai Tạng, chủng tử cơ bản của vạn pháp có thể 
				kết hợp thành từng nhóm quyện chặt với nhau để tạo thành một 
				chỉnh thể hiện tượng vạn hữu. Ngược lại những chủng tử cũng có 
				thể phân giải hoàn toàn hoặc chuyển hóa dần dần từ lượng dẫn đến 
				chuyển hóa hoàn toàn về chất để rồi sự vật củ mất đi để hình 
				thành sự vật mới nối tiếp. 
				 
				Tất cả sự vật dù là đồng tánh hay dị tánh, đồng chủng hay dị 
				chủng, đồng năng hay dị năng duyên khởi mà tạo ra muôn loài hữu 
				tình và vô tình chúng sinh. Mà đã là vạn vật hữu hình thì tất cả 
				đều là pháp hữu vi. Tại sao lại là pháp hữu vi? Bởi vì các pháp 
				đó là do duyên khởi, duyên sanh hội hợp lại mà thành, chớ không 
				có gì chắc thật cả. Vì thế mà kinh Kim Cang có câu : “Nhất thiết 
				hữu vi pháp; Như mộng, huyễn, bào, ảnh; Như lộ diệc như điện; 
				Ưng tác như thị quán” nghĩa là tất cả các pháp hữu vi đều như 
				mộng, như huyển, như bọt nước, như bóng, như sương, như điện 
				chớp, có đó rồi mất đó. 
				  
				PHẬT DẠY RÕ VỀ 3 TƯỚNG 
				TƯƠNG TỤC 
				 
				1) THẾ GIỚI TƯƠNG TỤC : 
				 
				Phật bảo rằng : 
				 
				-Phú Lâu Na! Tánh giác thì sáng suốt; hư không thì bất động vô 
				tri. Hai thứ tác động thành tác năng dao động. Do đó, trong thế 
				giới có hiện tượng lay động phát sinh (gió: phong đại). Trong 
				tánh năng dao động, những thứ đồng chủng hòa hợp với nhau kết 
				thành tánh chất ngại. Đây là hiện tượng kim luân được hình thành 
				để bảo trì quốc độ (kim luân là dị dạng của địa đại, nhiếp thuộc 
				về địa đại). 
				Kim luân cọ sát với 
				không khí trong hư không biến ra năng lượng. Hiện tượng hỏa đại 
				phát huy từ đó. Kim luân sanh nước. Tánh nước chảy xuống. Tánh 
				lửa bốc lên. Thủy đại chảy xuống, hỏa đại bốc lên, địa đại bảo 
				trì. Từ đó hiện tượng vật chất đủ điều kiện hoàn thành viên mãn. 
				Chỗ sâu có là nước biển, chỗ cạn là cồn bãi, lục địa. Do nguyên 
				nhân đó, trong biển lửa thường sanh khởi. Cồn, bãi, lục địa, 
				sông lạch thường tuôn chảy không ngừng. Chỗ thế nước kém thế lửa 
				kết tụ thành núi cao cho nên đánh đá thì lửa nhoáng ra. Chỗ thế 
				đất kém thế nước hay sinh cây cỏ. Vì vậy, rừng cháy thành đất, 
				vắt ép gỗ chảy ra nước. 
				Sự vật hiện tượng trong 
				thế giới tương quan làm nhân quả cho nhau mà sanh. Xoay vần làm 
				nhân duyên cho nhau không dứt, vì vậy thế giới duy trì tương tục 
				vô cùng.   
				  
				Phần trên Đức Phật đã chỉ 
				rõ nguyên nhân của các pháp hữu vi là do không giác ngộ chơn 
				tánh khiến vọng tưởng phân biệt phát sinh mà thành. Vì sự mê lầm 
				ấy mà phát sinh ra thế giới, chúng sinh và nghiệp quả. 
				 
				Phong đại là gió, tượng trưng cho sức lay động vô hình. Mà vô 
				hình là hư không vốn không có tri giác nghĩa là hư không, không 
				hề biết thế nào là lay động hay thế nào là không lay động. Nhưng 
				vì tâm mê mờ chơn tánh nên có năng có sở đối đãi phân biệt tạo 
				thành vọng tưởng. Vọng tưởng này kích động tâm thể, chứa đầy hư 
				vọng rồi biến thành tập khí đầy ắp trong hư không mà biến thành 
				gió. Tất cả cảnh giới ở thế gian đều nương vào vọng tâm vô minh 
				mà tồn tại, cho nên có phong đại (gió) nắm giữ trong thế giới là 
				vậy. 
				 
				Địa đại cũng là loài vô tri vô giác, không tự mình biết là loài 
				hữu tình hay vô tình, là lỏng hay cứng, là to hay vi tế. Nhưng 
				vì giác tánh phân biệt, nương theo nghiệp mà phát minh ra tính 
				cứng, lập ra sự ngăn ngại cho nên trong thế gian mới có đất, đá, 
				sỏi, cát khắp mọi nơi. Vì địa đại có tánh ngăn ngại nên tất cả 
				những gì mà choáng một phần không gian to lớn như núi cao rừng 
				thẳm và cực nhỏ như những vi tử trong nước hay trong không khí 
				đều là địa đại cả. Quả địa cầu cũng như tất cả những hành tinh 
				khác trong thế gian vũ trụ này đều kết cấu giống như nhau. Đó là 
				bên ngoài được kết tập bằng những lớp đất đá rất cứng, nhưng bên 
				trong là những nham thạch rất nóng ở thể lỏng, xoay động dựa 
				theo tiến trình di động của trái đất mà nhà Phật gọi là Kim luân 
				tức là cái nền móng căn bản để kiến tạo vật thể trên thế gian. 
				 
				Gió thì lay động gặp đất ngăn cản nên có sự ma xát mà sinh ra 
				lửa (hỏa đại). Hỏa đại không nhất thiết phải là lửa, mà có thể 
				là tất cả sự nóng lạnh. Khi độ nóng tăng cao thì những chất cứng 
				sẽ chảy thành nước. Nước là thể lỏng nên chảy từ cao xuống thấp 
				trong khi lửa cháy thành khí nên bốc lên cao. Vậy tánh lửa bốc 
				lên, tánh nước chảy xuống và tánh đất thì ngăn ngại và từ đó 
				hiện tượng vật chất có đủ điều kiện hình thành viên mãn mà tạo 
				ra hình dáng của thế giới. 
				Thời gian trôi qua khiến 
				vật chất thay hình đổi dạng. Chỗ sâu nước dồn xuống thì gọi là 
				biển, chỗ cạn là cồn, bãi. Chỗ đất cao nổi lên thì gọi là đồi. 
				Vì sự sinh biến mà trong biển lửa thường sinh khởi. Thí dụ ngày 
				nay chúng ta thấy có rất nhiều vụ núi lửa nổ tung tận đáy biển 
				sâu khoảng 4,000 ft ở Thái Bình Dương. Lửa cháy ở đáy biển cũng 
				giống y như lửa cháy ở trên mặt đất vậy. Gần đây nhất, có vụ núi 
				lửa nổ tung tận dưới lòng nước ở xứ Iceland mà ngọn lửa bốc lên 
				cao hơn mặt nước biển. Khoa học ngày nay cũng mới khám phá một 
				loại nham thạch trong các rặng san hô mà chỉ cháy trong nước. 
				 
				1) Chỗ nào thế lửa (hỏa đại) bốc lên mạnh hơn thế nước (thủy 
				đại) thì đất nổi lên thành núi cao. Vì thế, nếu lấy hai viên đá 
				đập vào nhau sẽ phát ra tia lửa hoặc nấu các cục đá kia thì nó 
				sẽ chảy thành nước. 
				 
				2) Chỗ nào thế đất (địa đại) yếu hơn thế nước (thủy đại) thì đất 
				hóa ra mềm làm sinh ra cây cỏ. Nhưng nếu đem những cây đó đốt đi 
				thì nó sẽ cháy thành tro (đất, địa đại) hoặc nếu đem ép những 
				cây gỗ thì có nước chảy ra (thủy đại).  Xét như vậy thì đâu 
				đâu cũng đều có đất, nước, gió, lửa tùy theo nhân duyên mà phát 
				sinh những hiện tượng khác nhau. Sự vật hiện tượng trong thế 
				giới làm nhân làm duyên cho nhau, khi thành, khi trụ, khi hoại, 
				khi không, không ngừng, không dứt. Vì vậy thế giới được duy trì 
				tương tục vô cùng vô tận. 
				 
				Vậy “Tánh giác diệu minh” làm mê mờ chân lý vũ trụ quan khiến 
				vọng tưởng phát sinh mà tạo thành vạn pháp trong vũ trụ. Nói 
				cách khác vạn pháp trong thế giới này là do tâm niệm của chúng 
				sinh phát khởi mà thành. Vì thế nếu thế gian có được mưa thuận 
				gió hòa cũng bởi con người có tâm niệm lành, biết thương yêu 
				đồng loại, biết xóa bỏ tranh chấp đố kỵ. Ngược lại nếu con người 
				vì tư lợi, tranh chấp, giết hại lẫn nhau thì dĩ nhiên vọng tưởng 
				phát sinh liên tục khiến cho đất, nước, gió, lửa bất hòa mà tạo 
				thành cuồng phong, bảo tố. Ngày nào con người còn tranh chấp, 
				còn ý nghĩ tiêu diệt lẫn nhau thì ngày ấy còn động đất lớn, còn 
				có những lượn sóng thần, còn bảo tố, còn núi lửa để cảnh giác 
				con người. Do đó muốn sống hạnh phúc thanh nhàn thì do con người, 
				mà gánh chịu cảnh tang tóc đau thương thì cũng do con người chớ 
				trời Phật không can dự vào. 
				 
				2) CHÚNG SINH TƯƠNG TỤC : 
				 
				Lại nữa, Phú Lâu Na! “Vọng minh” không phải là cái khác lạ. 
				Do vì chúng sinh dùng cái kiến minh tri để minh tánh giác mà có 
				sự lỗi lầm. Từ đó có cái sở minh. Sở minh đã có thì cái năng 
				minh bị lệ thuộc vào. Vì vậy, tánh nghe không ngoài âm thanh, 
				tánh thấy không ngoài màu sắc; sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp, 
				sáu vọng trần đã hình thành làm đối tượng cho “vọng năng”. Những 
				cái thấy, nghe, ngửi, nếm, biết sanh khởi. Hễ đồng nghiệp thì 
				hấp dẫn lúc hợp lúc ly, khi tình khi tưởng. Tánh thấy “năng 
				minh” có thì đương nhiên có sắc sở minh hiển hiện. Chủ thế đối 
				tượng tác động vào nhau, từ cảm tính chuyển sang lý tính, từ lý 
				tính nảy sinh khái niệm, từ khái niệm dẫn đến tư duy. 
				Do tư duy có sự tưởng 
				tượng nhận thức: Hễ ý kiến bị phủ nhận, sanh tâm lý ghen ghét. 
				Tư tưởng được đồng tình, sanh tâm lý yêu thương. Dòng nước yêu 
				thương kết thành chủng tử, thu nạp tưởng tượng hấp dẫn nghiệp 
				đồng, tác hợp với “yết la lam” thành trạng thái của phôi trong 
				thời gian gọi là “ngưng hoạt” (tinh trùng và noãn sào mới hợp 
				nhau trong ba bốn tuần đầu). Thai sinh, noãn sinh, thấp sinh, 
				hóa sinh, tuỳ nghiệp đồng và thích ứng của mỗi loài mà cảm ứng. 
				Thai nhơn tình mà có. Noãn do tưởng mà sinh. Thấp bởi hợp mà 
				cảm. Hóa vì ly mà ứng. Tình, tưởng, hợp, ly luôn luôn vận động 
				đổi thay theo nghiệp sở hành mà cảm thọ: Khi đi lên, lúc đi 
				xuống xoay vần trong sáu nẻo. Đó là nguồn gốc làm chúng sinh 
				tương tục không dừng. 
				 
				Trong pháp giới thanh tịnh vốn không có chúng sinh, nhưng vì do 
				vọng niệm từ vô thỉ mà thành vô minh rồi dần dần biến thành căn 
				nguyên sinh ra chúng sinh. Do vậy vọng minh chính là vô minh và 
				cũng từ cái vô minh này mà dần theo thời gian hình thành sở 
				tướng của tứ đại và hấp thụ tứ đại để làm thân. Vọng tưởng sai 
				lầm đã biến con người thành “vọng năng” và dĩ nhiên chấp nhận có 
				“sở năng” bên ngoài. Một khi chấp có “năng sở” nghĩa là chấp có 
				chủ thể và đối tượng tức là chấp có sự đối đãi phân biệt. Năng 
				minh là lục căn (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý) ở bên trong của 
				con người và sở minh chính là sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp 
				tức là ngoại trần. Vì thế tuy thế giới vạn pháp có bao la vô 
				cùng vô tận, nhưng cũng không ra ngoài căn, trần cả. 
				Thật vậy, khi lục căn tiếp 
				xúc với lục trần nghĩa là năng minh hòa nhập với sở minh thì ý 
				thức vọng niệm được phát khởi. Vì nhân duyên đó mà con người chỉ 
				nghe khi có tiếng, có âm thanh và chỉ thấy khi có sắc tướng chớ 
				không thể thấy, nghe xa được. Nói cách khác lúc ấy kiến, văn, 
				giác, tri nghĩa là thấy, nghe, hay, biết được hình thành. Tuy 
				thế giới thay đổi tùy theo sở minh, nhưng tựu trung tất cả cũng 
				nằm trong quy luật thành, trụ, hoại, không nghĩa là có đó rồi 
				mất đó. Khi năng minh, sở minh hòa hợp thì tư tưởng phát sinh. 
				Nếu chúng sinh đồng một tư tưởng thì thương yêu nhau, ngược lại, 
				nếu ý bất đồng thì ghét nhau. Dòng nước ân ái yêu thương kết 
				thành tập khí chủng tử. Ba món “Căn, Trần, Thức” hòa hợp làm 
				nhân tạo nghiệp cho nên quả khổ tứ sinh cũng bám theo. Nếu đồng 
				nghiệp ràng buộc nhau thì hình thành vào thai sinh hay noãn 
				sinh. Còn ly nghiệp thì hình thành vào loài thấp sinh hay hóa 
				sinh. 
				Thí dụ thai sinh là con 
				người sinh ra con người hay con bò cũng sinh ra con bò…Noãn sinh 
				là con vật được sinh ra bằng trứng. Chẳng hạn như con gà, con 
				vịt, con chim, con cá sấu đẻ trứng rồi trứng mới nở thành con 
				gà… Thấp sinh là do những cơ cảm, biến đổi của thiên nhiên tạo 
				thành. Thí dụ như con đom đóm là do hợp với khí ẩm ướt của những 
				cây rơm, cây lúa và mưa. Do đó con đom đóm là loài thấp sinh. 
				Còn hóa sinh là hóa hiện để sinh về một cõi tốt lành hơn mà 
				không cần đầu thai vào người mẹ. Thí dụ, ngày xưa trưởng giả Cấp 
				Cô Độc Tu Đạt Đa đã cúng dường tịnh xá Kỳ Viên cho Phật và chư 
				đệ tử nên khi chết được hóa thân vào cung trời Đầu Suất 
				(Tushita) để hưởng phước lợi. 
				 
				Nhưng nguyên nhân của sự đầu thai như thế nào? 
				Thật ra chúng sinh trong 
				loài tứ sinh cũng đều do một niệm vô minh mà hình thành. Chúng 
				sinh vì tạo vọng nghiệp nên sau khi chết đi vào thân trung ấm, 
				sắc thân không còn mà chỉ còn ngũ thông nên mắt nhìn thấy rất 
				xa. Do tập khí ái nhiễm nên thần thức nhất định phải tìm một 
				cảnh để yêu, cho dù xa xôi ngàn dặm, nhưng do chiêu cảm nên thấy 
				rất gần cho nên thấy sáng thì sắc phát hiện. Khi chiêu cảm cảnh 
				ái ân, thần thức liền chạy đến chỗ đó và “tưởng” bắt đầu hình 
				thành. 
				Ngay trong lúc nam nữ đang 
				giao cấu thì “tưởng” trong thân trung ấm phát hiện. Nếu thân 
				trung ấm là nam thì ghét cha thương mẹ, nếu thân trung ấm là nữ 
				thì ghét mẹ thương cha. Đó là “dị kiến thành ghét, đồng tưởng 
				thành yêu” và thân trung ấm hấp thụ dòng ái đó mà lưu vào thai 
				mẹ rồi thành chủng tử thọ hình. Bây giờ “tưởng” bám vào tinh cha 
				huyết mẹ mà lập thành chấp ngã. Do “nghiệp ái làm nhân, cảnh ái 
				làm duyên” mà ở trong thai bảy ngày nên gọi là yết-ma-lam. Được 
				hai tuần thì bào thai gọi là Át-bồ-đàm. Ba tuần thì gọi là 
				Tế-thi. Kiện nam là bốn tuần và Bát-la-xa là hình thể khoảng 35 
				ngày. Sau 35 ngày thì lục căn mới đầy đủ. 
				Nói tóm lại, tùy theo 
				nghiệp đã tạo mà cảm ứng sinh vào một trong bốn loài: thai, 
				noãn, thấp và hóa. Đó là theo nghiệp mà lưu chuyển và do dòng 
				nước ái ân yêu thương kết thành tập khí chủng tử. Nếu hấp dẫn 
				đồng nghiệp thì tác hợp với phôi. Phôi lớn thành thai rồi dần 
				theo thời gian mà lục nhập, xúc, thọ, ái… được phát triển. Vì 
				vậy thai sinh là do nhân tình mà có. Noãn sinh là do tưởng 
				(niệm) mà sinh nghĩa là loài thú không có lòng yêu thương như 
				con người mà chỉ có tưởng niệm về dục vọng. Thấp sinh nhờ hợp mà 
				thành và Hóa sinh bởi phân ly mà ứng hiện. Tưởng thì nhẹ nhàng 
				còn tình thì nặng nề. Bởi nhân duyên đó mà chúng sinh tương 
				tục.  
				 
				3) NGHIỆP QUẢ TƯƠNG TỤC : 
				 
				Phật bảo : 
				 
				- Phú Lâu Na! Tưởng và ái gắn bó ràng buộc lẫn nhau. Ái mãi 
				không rời kết thành nghiệp nhân tương tục: Cha, mẹ, vợ, chồng, 
				con, cháu tương tục sanh lên sanh xuống không có thời kỳ chấm 
				dứt. Hạng chúng sinh này do “dục tham” làm gốc. Tham và ái đắm 
				đuối nặng nề, tham ái mãi không thôi. Nghiệp nhơn này khiến cho 
				các loài thai sinh, noãn sinh, thấp sinh, hóa sinh trong thế 
				gian, tùy sức mạnh yếu, ăn nuốt lẫn nhau. Hạng chúng sinh này do 
				“sát tham” làm gốc. 
				 
				Phú lâu Na! Do những bất thiện nghiệp như vậy, người này mắc nợ 
				thân mạng người kia. Người kia trả nợ cũ cho người này. Người 
				này thương cái lòng tốt của người kia. Người kia yêu cái sắc đẹp 
				của người này. Do nhơn duyên đó trải trăm nghìn kiếp ở mãi trong 
				ràng buộc sinh tử khổ đau. Ba món Sát, Đạo, Dâm là những yếu tố 
				căn bản tạo thành nghiệp quả tương tục. 
				 
				Phú Lâu Na! Sở dĩ có ba thứ tương tục điên đảo là do nhận thức 
				sai lầm: Rằng phải nhờ lấy cái minh để minh tánh giác; Tánh giác 
				diệu minh, bản giác minh diệu, đại địa san hà vũ trụ vạn hữu là 
				hiện tượng hữu vi, có sinh có diệt là do kiến chấp vọng tưởng 
				của con người. Sự thật, thể tánh của các hiện tượng vốn thanh 
				tịnh bản nhiên là diệu dụng của Như Lai Tạng biểu hiện. Khi tư 
				tưởng yêu thương ràng buộc lẫn nhau thì con người trôi nổi trong 
				sinh tử trầm luân. Lúc thì tái sinh làm cha, làm mẹ. Khi thì đầu 
				thai làm con làm cháu, lên xuống không cùng không tận. Tưởng ái 
				đồng kết lại thì lòng yêu thương không thể rời cho nên cha mẹ, 
				con cái, vợ chồng, anh em… sanh nhau trong thế gian không bao 
				giờ dứt. Cái khổ quả sinh tử này chung quy cũng tại vì lòng tham 
				dục. 
				  
				Tham và ái hổ tương cho 
				nhau thì lòng tham không bao giờ ngừng dứt. Con người vì bị vô 
				minh che lấp nên chạy theo ái dục mà phải chịu luân hồi. Thí dụ, 
				bà vì quá thương cháu mà tái sinh làm con của cháu mình. Vì thế 
				mà thế giới này mới là dục giới. Một khi tâm dục nghĩa là lòng 
				mình muốn chiếm hữu hay đoạt lấy vật gì thì lòng tham bắt đầu 
				phát khởi. Một khi lòng tham phát khởi thì tất cả các loài như 
				thai sinh, noãn sinh, thấp sinh và hóa sinh tùy theo sức mạnh 
				của nó mà ăn nuốt những loài khác để tạo thành sát nghiệp. Thí 
				dụ, con cọp ăn thịt con nai yếu đuối. Loài người săn bắn giết 
				hại vô số súc vật. Ở biển cả sông ngòi, cá lớn nuốt cá bé… Bởi 
				cũng vì sát nghiệp mà loài người, loài vật thay nhau tái sinh để 
				chịu quả báo luân hồi. Thí dụ con người đi săn giết hại con nai. 
				Con nai chết tức tưởi nên một kiếp nào đó nó tái sinh làm người 
				và cũng đi săn để giết chết con nai khác chính là người thợ săn 
				quả báo làm nai. 
				Nói cách khác vì nghiệp sát 
				sinh mà bốn loài sát hại giết chết nhau, ăn nuốt nhau và sau 
				cùng phải thọ báo để bị thảm hại, ăn nuốt trở lại. Đời này qua, 
				đời khác đến vô cùng vô tận biết đến chừng nào mới chấm dứt. Do 
				đó tư tưởng Phật giáo khuyên chúng sinh nên phát triển lòng từ 
				bi để thương yêu tất cả mọi loài và chấm dứt nghiệp sát hại thì 
				quả báo luân hồi mới có thể chấm dứt được. Con người vì sống với 
				lòng tham dục nên phải chạy theo sinh tử luân hồi. Cũng vì tham 
				dục mà con người giết hại, ăn nuốt lẫn nhau. Chủ nhân, phú hộ 
				muốn giàu thêm nên chèn ép người nghèo khó, thế cô. Kiếp này 
				mình ỷ thế chèn ép người tức là cướp không của người, là nợ 
				người vì thế sang đến đời sau phải đầu thai trả nợ cho người. 
				 
				Nói chung con người có chìm đắm trong sinh tử khổ đau cũng chỉ 
				vì chạy theo tham, sân, si. Từ đó Sát, Dâm, Đạo hình thành, sai 
				sử khiến con người càng ngày càng lún sâu trong vòng tội nghiệp. 
				Trong Phật giáo nghiệp sát hại là đại nghiệp vì thế người Phật 
				tử vì lòng từ bi thương xót chúng sinh, thương người như thương 
				mình và thấy nỗi đau của chúng sinh chính là nỗi đau của mình 
				nên không giết hại. Con người ăn thịt chúng sinh thì ngày sau 
				chúng sinh đổi kiếp ăn thịt con người trở lại. Nếu cưỡng giết 
				mạng chúng sinh để lấy thịt ăn thì gọi là Đạo. Mà có nợ thân 
				mạng thì cũng là do sát tham mà ra. Do đó, nếu đền nợ cũ cho 
				người thì gọi là đạo tham vậy. Ngày xưa tôn giả Mục Kiền Liên là 
				đệ nhất thần thông, có tài thiên biến vạn hóa, thế mà trong tiền 
				kiếp làm nghề chài lưới giết hại quá nhiều chúng sinh nên vào 
				thời Đức Phật tuy đã tu thành Thánh mà những chúng sinh đã bị 
				Ngài sát hại bây giờ tái sinh làm bọn ngoại đạo để sát hại Ngài. 
				Do đó, ngày nay ta sát hại 
				chúng sinh thì ngày mai chúng sinh quay trở lại sát hại lại 
				chúng ta. Vì thế nếu muốn tiêu diệt nghiệp sát sinh thì ngay bây 
				giờ phải chấm dứt sát hại làm đau thương đến muôn loài và bồi 
				dưỡng cũng như phát huy tình thương, lòng từ bi đối với tất cả 
				chúng sinh. Tuy không còn tâm sát hại, nhưng nếu vẫn còn tâm dâm 
				thì con người vẫn bị tái sinh luân hồi vì thần thức trong thân 
				trung ấm còn cảm nhận dục tình khi thấy cảnh ái ân của nam nữ mà 
				lưu vào thai mẹ để trở thành chủng tử thọ hình. Muốn thoát khỏi 
				luân hồi thì tâm dâm phải dứt cho nên thần thức lúc nào cũng như 
				như bất động cho dù đứng trước cảnh dục tình. Lấy của người làm 
				người đau khổ tức là nợ của người đó rồi nên kiếp sau phải đầu 
				thai để trả cho hết những mối nợ này. Vì thế không tham, không 
				dâm, không sát hại, không đạo thì sẽ không còn sinh tử và dĩ 
				nhiên chặt đứt dây luân hồi.   
				   
				GIÁC KHÔNG SINH MÊ
				- THẤT ĐẠI DUNG ĐƯỢC NHAU MÀ KHÔNG CÓ GÌ 
				TRỞ NGẠI 
				  
				GIÁC KHÔNG SINH MÊ 
				 
				Ông Phú Lâu Na thưa: 
				 
				- Bạch Thế Tôn! Nếu tánh giác vốn nhiệm mầu trong sáng cùng với 
				tâm Như Lai không kém không hơn. Thế mà vô cớ bỗng nhiên lại 
				sinh núi sông, đất liền các hiện tượng hữu vi sinh diệt. Vậy 
				hiện nay Như Lai đã chứng nhập bản thể giác minh (tánh giác diệu 
				minh, bản giác diệu minh ấy) ví phỏng chừng nào Như Lai sinh lại 
				vọng tưởng phân biệt đối với các pháp hiện tượng hữu vi? Và 
				chừng nào hoặc lậu của Như Lai sinh trở lại? 
				 
				Phật bảo: 
				 
				- Phú Lâu Na! Ví như có người do mê mà lầm cho phương Nam là 
				phương Bắc, cái mê như vậy, không nhân mê mà có, vì mê vốn không 
				có gốc rễ, không có hình dáng kích thước, cũng không phải màu 
				sắc, càng không phải nhân ngộ, vì ngộ là tỉnh, là sáng suốt, ngộ 
				không sinh mê. Người mê đang lúc mê bỗng có người ngộ giải thích 
				chỉ bày cho được ngộ; người mê hóa giải, dứt được cái mê thì 
				phương hướng Bắc Nam không còn lầm lẫn nữa. Mười phương Như Lai 
				cũng vậy. Mê vốn không gốc rễ, tánh của nó là không. Xưa vốn 
				không có mê, tựa hồ như có mê, có giác. Giác được mê thì mê 
				diệt, giác vốn không sanh ra mê. Lại cũng như người nhặm mắt, 
				thấy hoa đóm đầy khắp hư không. Nếu trị dứt bịnh nhặm mắt thì 
				hoa đóm trong không tự hết. Nếu ai đó mong chờ cho hư không sanh 
				hoa trở lại là kẻ quá ngu si, với hạng người như vậy, không thể 
				nói: Rằng họ là người ngu hay trí. 
				 
				- Lại nữa! Phú Lâu Na! Ví như quặng vàng lẫn lộn với vàng ròng. 
				Khi vàng đã nấu lọc tinh rồi thì vàng không là quặng nữa. Lại 
				cũng như gỗ đã đốt thành tro, tro không thể hoàn nguyên thành gỗ 
				được. 
				 
				- Phú Lâu Na! Vấn đề Niết bàn của mười phương Như Lai cũng như 
				vậy. Như Lai không bao giờ sanh lại vọng tưởng phân biệt để chấp 
				mắc các hiện tượng hữu vi. Và cũng không có việc Như Lai sanh 
				lậu hoặc trở lại. 
				 
				Ngài Phú Lâu Na là đại đệ tử đã chứng Thánh quả nên chính Ngài 
				đã thừa hiểu rằng một khi chúng sinh đạt được “Chơn tâm thường 
				trú, Thể tánh tịnh minh” thì cái thường, cái thật, cái có sẳn là 
				của chính mình. Còn cái bất giác (chưa giác ngộ), cái mê, cái 
				tham, sân, si, mạn, nghi… là những cái vọng thành. Chúng chỉ là 
				những “khách trần” phiền não có đến rồi đi. Vì thế câu hỏi của 
				Phú Lâu Na là để giúp cho những người hữu học có một cái nhận 
				định chắc chắn trên con đường tu học. 
				 
				Tất cả chúng sinh từ loài hữu tình đến vô tình đều có chung tự 
				tánh thanh tịnh bản nhiên mà được gọi là “tánh giác”. Đối với 
				con người thì cái tánh giác này là Phật tánh. Phật tánh hay tánh 
				giác thì lúc nào cũng thanh tịnh, trong sáng, thường diệu, 
				thường minh nên gọi là “tánh giác diệu minh” mà không cần cái 
				minh bên ngoài tức là sở minh để có minh. Nhưng con người vì lầm 
				lẫn chạy theo vọng chấp tham-sân-si nên mới tạo nghiệp và tự cột 
				họ vào trong sinh tử luân hồi. Bây giờ biết hồi đầu thị ngạn, tự 
				quay thuyền trở lại bến xưa thì tánh giác sẽ trở thành bản giác 
				tức là cái giác tính bản lai sẳn có của mình. Cái bản giác này 
				thường minh và thường diệu nên gọi là bản giác minh diệu. Phật 
				tánh thì lúc nào cũng sẵn có trong tất cả mọi chúng sinh, vì 
				thế, Phật tánh hay tánh giác diệu minh là Chánh Nhân Phật tánh 
				nghĩa là tánh mầu nhiệm vốn sẵn có. Còn bản giác minh diệu là 
				Liễu Nhân Phật tánh nghĩa là Phật tánh nhờ công phu tu tập rồi 
				mới ngộ. 
				 
				Như thế cái bản thể giác minh mà ông Phú Lâu Na hỏi Đức Phật 
				chính là Liễu Nhân Phật tánh tức là bản giác minh diệu của Ngài. 
				Khi Chư Phật đã loại bỏ tất cả phiền não chướng, tri kiến chướng 
				để trở thành Liễu Nhân Phật tánh thì cái bản giác minh diệu này 
				là thường hằng, là cái thật có, là cái minh cái diệu lúc nào 
				cũng sẵn có trong Như Lai. 
				 
				Thí dụ, chúng ta ở Hoa Kỳ lái xe bên tay mặt, nhưng người Anh 
				Quốc lại lái xe bên tay trái nên khi đi du lịch qua bên đó, 
				chúng ta lái xe lộn bên, lầm lẫn dễ gây ra tai nạn, may có người 
				chỉ cho thì bây giờ chúng ta đâu còn lái xe bên tay mặt nữa. Do 
				đó một khi đã chứng ngộ, đạt được minh tâm kiến tánh hay nhất 
				tâm bất loạn thì không bao giờ trở lại làm phàm phu. 
				 
				Trong kinh Duy Ma Cật, khi nói về chứng đắc tôn giả Xá Lợi Phất 
				đã hỏi vị Thiên nữ rằng : 
				 
				- Chừng nào người được Vô thượng Bồ-đề, thưa Thiên nữ? 
				 
				- Chừng nào ngài Xá Lợi Phất trở lại làm phàm phu thì tôi mới 
				thành Vô thượng Bồ-đề. 
				 
				- Tôi không bao giờ trở lại làm phàm phu. 
				 
				- Thì tôi cũng không bao gờ được quả Vô thượng Bồ-đề. Vì sao? Vì 
				Bồ-đề “vô sở trụ”. Thế nên Bồ-đề không có cái “được”. 
				  
				Bồ-đề, Phật tánh đối với 
				chúng sinh cũng ví như vàng còn lẫn lộn trong mỏ với đất cát sỏi 
				đá. Nay nếu đem về rửa sạch đất cát cũng như con người loại bỏ 
				tất cả tham-sân-si mạn nghi thì sẽ thấy vàng nguyên chất cũng 
				như Phật tánh sẽ hiện bày. Một khi đã có vàng nguyên chất thì 
				làm gì còn đất cát sỏi đá cũng như chúng sinh đã liễu ngộ thì 
				không bao giờ trở lại làm phàm nhân lầm lẫn. 
				 
				Cũng như có bịnh lòa thì thấy có hoa đóm giữa hư không. Nhưng 
				hoa đóm là do bệnh lòa mà có chớ không phải thật có. Đến khi 
				chữa trị hết bệnh lòa thì hoa đóm cũng không còn. Vì vậy tất cả 
				các pháp hữu vi đều do cái bệnh bất giác (mê) biến thành chớ 
				không phải thật có. Do đó khi thức tỉnh giác ngộ thì cái hữu vi 
				cũng chẳng có và tướng hữu vi cũng chẳng còn. 
				 
				Lại như cây đã đốt thành tro thì không thể đâm chồi mọc lá được. 
				Vì thế, Chư Phật đã giác ngộ hoàn toàn, diệt trừ tận gốc tất cả 
				những mê lầm sinh diệt thì làm sao còn sinh được các pháp hữu 
				vi? 
				 
				Như thế tuy chúng sinh có đồng tánh giác diệu minh như Chư Phật, 
				không thêm không bớt, nhưng vì sống trong điên đảo nên không 
				nhận được giác tính thường diệu thường minh nên phải trôi nổi 
				trong sinh tử luân hồi. Ngược lại, Chư Phật hoàn toàn thức tỉnh 
				nên các Ngài đã trừ hết cội gốc của mê lầm, nên tuy cùng giác 
				tính đó mà các Ngài đã thực chứng giác tính, diệu dụng của mình 
				tức là đã có bản giác minh diệu nên sẽ không bao giờ còn mê lầm 
				được nữa. Nói cách khác, khi đã giác ngộ thì sẽ không bao giờ 
				còn mê lầm nghĩa là khi đã thành Phật sẽ không bao giờ trở lại 
				làm chúng sinh. 
				 
				Chỉ Các Đại Có Thể Dung Nhau 
				 
				Phật bảo: 
				 
				- Này Phú Lâu Na! Ông còn nghi ngờ. Vì sao thất đại: Địa, thủy, 
				hỏa, phong, không, kiến, thức lại có thể dung nhau? Trong thực 
				tế ông thấy chúng thường tự xâm đoạt hủy diệt nhau. 
				 
				- Phú Lâu Na! Ví như hư không, không thể của nó vốn không phải 
				hình tướng, nhưng nó không chống đối các tướng phát huy trong 
				nó. Phú Lâu Na! Bầu hư không vô cực kia, hễ mặt trời soi thì 
				sáng, mây ùn thì tối, gió lay thì động, trời tạnh thì trong, hơi 
				đọng thì đục, bụi nổi thì mù, nước lặng thì lóng lánh. Phú Lâu 
				Na! Ông hiểu thế nào? Các tướng hữu vi sai khác dường ấy. Vậy nó 
				nhân những cái đã có kia mà tự sinh hay nhân hư không mà có? Phú 
				Lâu Na! Nếu bảo rằng do những cái kia tự sanh, vậy khi mặt trời 
				soi, mặt trời sáng thì mười phương thế giới đều thành sắc của 
				mặt trời, làm sao giữa hư không lại còn thấy mặt trời tròn? Nếu 
				bảo rằng hư không sáng thì hư không tự soi lấy, cớ sao giữa lúc 
				đêm mây mù không có ánh sáng soi? Vậy nên biết rằng : Cái sáng 
				không phải mặt trời, không phải hư không, nhưng không ngoài hư 
				không và mặt trời. 
				 
				- Phú Lâu Na! Ông nên biết rằng: Đứng bên hiện tượng mà nhìn thì 
				hiện tượng vốn vọng, cho nên không làm sao chỉ bày chính xác và 
				đích thực được. Nhưng đứng trên bản thể mà tư duy, ta sẽ thấy 
				bản thể là chơn: “Tánh giác diệu minh, bản giác minh diệu”, cho 
				nên “địa” vốn không là “địa”. “Không” vốn chẳng là “không”. 
				Thủy, hỏa, phong… cũng vậy thì làm chi có việc trở ngại không 
				dung nhau được. 
				 
				Trong bản tánh minh diệu của Như Lai Tạng, ông cần phát minh hư 
				không thì có hư không hiện ra. Ví như một dòng nước in bóng mặt 
				trăng. Hai người cùng trông thấy bóng mặt trăng in đáy nước. Rồi 
				người đi về Đông, người đi về Tây cả hai đều thấy có mặt trăng 
				theo mình mà không có chuẩn đích cho mặt trăng cố định. Trước sự 
				kiện đó không nên gạn hỏi: Mặt trăng là một, sao có thể đi theo 
				hai hướng khác nhau? Cũng không được hỏi: Mặt trăng đã thành 
				hai, sao trước kia hiện ra có một? 
				 
				Phú Lâu Na! “Duyên sanh như huyển” là vậy đó. Vì vậy mà Như Lai 
				dạy: “Tánh sắc chơn không”. Và cũng vì vậy, Như Lai nói: “Tánh 
				không chơn sắc…” Không có pháp nào có tự thể độc lập cố định của 
				chính mình. 
				 
				Tôn giả Phú Lâu Na đã dùng ý thức của tâm phân biệt mà nghi rằng 
				bản tính của tứ đại vốn trái ngược và tiêu diệt lẫn nhau như 
				nước kỵ lửa hay gió kỵ đất thì làm sao các đại có thể nương tựa, 
				dung nạp với nhau? Đối với Phật giáo, khi chúng sinh còn chấp 
				vào ý thức phân biệt thì họ còn chấp chặc vào sự tướng sinh diệt 
				biến đổi nên không thể nhìn thấu thật tướng của vạn pháp bằng 
				trí tuệ Bát nhã được. Các đại có thể dung nhau là vì tánh chất 
				duyên sanh của nó. Vì thế hiện tượng vạn pháp là do nhân duyên 
				sanh cho nên không có pháp nào có tự thể độc lập hay cố định 
				đích thực cho riêng mình. 
				 
				Tất cả vạn pháp trong thế gian hay tứ đại nói riêng đều là pháp 
				giới tánh, đều là bản tánh chân như trong Như Lai Tạng. Mà đã là 
				pháp giới tánh thì bao trùm khắp cả thì làm sao lại không dung 
				được nhau. 
				 
				Bởi vậy Phật mới dạy rằng: 
				 
				Tánh sắc chơn không, tánh không chơn sắc… 
				Tánh thủy chơn không, tánh không chơn thủy… 
				Tánh hỏa chơn không, tánh không chơn hỏa… 
				Tánh phong chơn không, tánh không chơn phong… 
				 
				Tất cả đều thanh tịnh bản nhiên, chu biến pháp giới, nhưng tùy 
				chúng sinh tâm, ứng sở tri lượng mà tuần nghiệp phát hiện. 
				 
				Thật tánh của tất cả sắc, thủy, hỏa, phong là không nên trong 
				chơn không các đại dung nạp nhau rất tự tại. Nhưng một khi nhân 
				duyên xuất hiện thì từ trong chơn không mà diệu hữu một cách 
				nhiệm mầu để biến thành sắc, thủy, hỏa, phong. Chơn không, pháp 
				giới tánh thì lúc nào cũng bản nhiên thanh tịnh, nhưng pháp giới 
				tánh duyên khởi trùng trùng vô cùng vô tận. Mỗi khi có tâm niệm 
				thì pháp giới tánh cũng duyên theo tâm niệm ấy mà thay đổi. Nếu 
				chúng sinh tâm niệm nước thì pháp giới tánh duyên ra thành nước. 
				Nếu bây giờ chúng sinh tâm 
				niệm về gió thì pháp giới tánh duyên ra thành gió. Nếu tâm niệm 
				tất cả thì pháp giới tánh duyên ra tất cả đầy đủ đất, nước, gió, 
				lửa. Trong hư không thì không thấy gì cả, mà thật ra cũng chính 
				cái hư không này ngầm chứa đầy đủ các đại. Tại sao? Bởi vì trong 
				hư không, không hề có tướng cho nên nó không ngăn ngại các tướng 
				phát huy trong đó. Thí dụ như trong cái bầu trời này, nơi nào 
				cũng có lửa, nơi nào cũng có gió, nơi nào cũng có nước, nơi nào 
				cũng có sắc. Chúng dung nạp, nương tựa vào nhau và chỉ xuất hiện 
				khi nào chúng sinh có tâm niệm cần đến nó mà thôi. Hiện tượng 
				này là bất biến tùy duyên. Vì vậy hư không chỉ xuất hiện là do 
				tướng sở minh từ tánh giác diệu minh vọng tưởng mà sinh ra. Nói 
				cách khác, nếu tâm mình vọng tưởng hư không thì hư không mới 
				xuất hiện. 
				Các đại cũng thế, nếu chúng 
				sinh vọng tưởng gió thì sẽ có gió. Vọng tưởng đất, nước, lửa thì 
				các đại này sẽ dần dần xuất hiện. Nói tóm lại, nếu chúng sinh 
				không còn vọng tưởng thì tất cả các tướng hữu vi sinh diệt sẽ bị 
				tiêu diệt và dĩ nhiên tâm sẽ biến thành bản giác diệu minh nên 
				lúc nào cũng có thanh tịnh, an vui và tự tại. Cũng như khi còn 
				trong chiêm bao, tất cả những cảnh tướng hiện ra rất rõ ràng, 
				nhưng khi thức giấc (giác ngộ) thì cảnh tan, tướng mất, đâu còn. 
				Vì thế nếu chúng sinh quay về soi thấu tự tâm của chính mình để 
				sống với tánh giác diệu minh, với chơn tâm thường trú và thể 
				tánh tịnh minh thì tất cả những hình tướng hữu vi trong thế giới 
				này sẽ hoàn toàn biến mất trong tâm của họ. Khi ấy vọng tưởng 
				không còn và chúng sinh sẽ sống trong cảnh giới thanh tịnh, an 
				lạc mà nhà Phật gọi là chơn như tịch tịnh Niết bàn. 
				 
				Thí dụ, có hai người đứng gần nhau trên một hồ nước. Cả hai cùng 
				thấy có một mặt trăng soi chiếu dưới hồ. Bây giờ nếu một người 
				đi về hướng Tây thì thấy ánh trăng cũng đi theo người đó về 
				hướng Tây. Đến khi người khác đi về hướng Đông thì ánh trăng 
				cũng theo người kia về hướng Đông. Thế thì mỗi người đi mỗi 
				hướng mà mỗi người đều thấy ánh trăng đi theo mình. Vì là huyển, 
				nên ánh trăng tuy chỉ có một mà có thể theo hai hướng khác nhau 
				và cũng là huyển, nên ánh trăng trước là một mà nay lại biến 
				thành hai. Bởi vậy, sự vật duyên khởi như huyển như hóa tùy theo 
				tâm niệm, nhưng tự tánh vẫn là pháp giới tánh, Như Lai Tạng 
				thanh tịnh nhiệm mầu. 
				 
				CHỈ TÁNH DIỆU MINH HỢP VỀ NHƯ LAI TẠNG, RỜI CẢ HAI NGHĨA 
				“PHI” (KHÔNG LÀ) VÀ “TỨC” (TỨC LÀ) 
				 
				CHỈ VỀ TRÁI VỚI GIÁC TÁNH, HỢP VỚI TRẦN TƯỚNG 
				 
				Phật bảo: 
				 
				- Phú Lâu Na! Do nhận thức đánh giá của ông về Sắc Không của Như 
				Lai Tạng thì Như Lai Tạng theo cái nhận thức của ông mà có Sắc 
				Không khắp cùng pháp giới. Vậy nên ông thấy gió thì động, hư 
				không thì tịnh, mặt trời thì sáng, mây mù thì tối. Ông và tất cả 
				chúng sinh mê lầm, sống trái với giác tánh mình mà hợp với trần 
				tướng cho nên sanh khởi cái nhận thức trần lao. Do đó có các 
				tướng thế gian đối tượng. 
				 
				Đoạn kinh này chỉ về cái tướng trái với giác tánh và hợp với 
				trần tướng. Giác tánh chính là bản tâm thanh tịnh của chúng sinh 
				và trần tướng là những tướng trần lao bên ngoài như nhà cửa, xe 
				cộ…. Như lai Tạng là chơn tâm thường trú nên rất tịch tịnh, vắng 
				lặng, nhiệm mầu. Nhưng nếu chúng sinh vọng tưởng thì Như Lai 
				Tạng sẽ tùy theo vọng tưởng Sắc hay Không Sắc đó mà hiển bày. 
				Thí dụ như chúng sinh vọng tưởng về gió thì gió sẽ lay động, 
				vọng tưởng về nước thì sẽ có nước chảy… Tại sao? Vì những hiện 
				tượng này phát khởi từ trong tâm thức của con người. 
				Đó cũng tại vì chúng sinh 
				mê chấp nên từ bản tánh thanh tịnh sinh lầm ra vọng tưởng, trái 
				với giác tánh chân thật. Và một khi vọng tưởng được thiết lập 
				thì nó sẽ duyên theo cảnh giới bên ngoài nên mới gọi là hợp với 
				trần tướng. Con người thường nhận thức, đánh giá và đặt tên cho 
				những sự vật trên thế gian tùy theo tri kiến chủ quan của mình 
				vì thế mới có chủ thể và đối tượng tức là có năng và có sở. Vì 
				có năng có sở nên vọng thức phân biệt sinh khởi làm bản tánh 
				thanh tịnh biến mất. Ngược lại, Đức Phật không nhận thức đánh 
				giá sai lầm những sự vật hiện tượng trong thế gian theo tri kiến 
				điên đảo chủ quan, mà Đức Phật sống đúng, sống hợp với tánh giác 
				diệu minh, với chơn tâm thường trú, với Như Lai Tạng tịnh tịch 
				và tánh duyên sanh của tất cả hiện tượng vạn hữu nên Ngài mới có 
				Vô thượng Bồ-đề và Vô thượng Niết bàn là vậy. Thí dụ, mắt thấy 
				cảnh đẹp làm tâm thích, tâm chạy theo si mê cảnh giới này. 
				Cảnh giới bên ngoài là trần 
				tướng mà con người đem trói chặt vào tâm 
				nên vọng tưởng si mê phát sinh. Không có cảnh đẹp là lòng không 
				vui, như thiếu vắng cái gì. Niệm ưa thích phát khởi rồi con 
				người sinh ra ái nhiễm, say đắm vào nó. Do đó khi vọng tưởng 
				phát sinh ra hợp với trần tướng rồi thì các tướng hữu vi trần 
				lao thay nhau sinh khởi trong tâm. Vì vậy muốn trở về với bản 
				tâm thanh tịnh, con người phải diệt hết vọng niệm. Chính Lục Tổ 
				ngày xưa đã dạy trong Pháp Bảo Đàn kinh rằng muốn trở về với bản 
				lai diện mục thanh tịnh của mình, chúng sinh đừng để tâm trụ vào 
				sự tướng bên ngoài (vô sở trụ) nghĩa là thấy mà như không thấy, 
				nghe mà như không nghe… thì tâm mới được tự tại. Và vô niệm là 
				tâm đừng vọng tưởng, hướng ngoài mà phải quay vào bên trong. Khi 
				tâm không còn niệm thiện, niệm ác, niệm tốt, niệm xấu nghĩa là 
				tâm không còn phân biệt chấp trước thì lúc ấy tâm sẽ trở về với 
				thể tánh thanh tịnh tịch tĩnh của nó. Đó chính là chơn tâm, Phật 
				tánh, bản lai diện mục, tánh giác diệu minh của tất cả mọi chúng 
				sinh. 
				 
				 
				CHỈ TÁNH DIỆU MINH HỢP VỚI NHƯ LAI TẠNG 
				 
				- Phú Lâu Na! Như Lai sử dụng tánh giác diệu minh không sai 
				lầm nhận thức, không đánh giá điên đảo. Như Lai Tạng là tánh 
				giác diệu minh khắp trùm pháp giới. Vậy nên đối với Như Lai: Một 
				là tất cả, tất cả là một. Trong nhỏ hiện lớn, trong lớn hiện 
				nhỏ, ngồi tại đạo tràng bất động mà như ở khắp mười phương. Một 
				thân mà trùm cả hư không vô tận, đầu một mảy lông mà hiển hiện 
				ra vô vàn cõi Phật. Ngồi trong vi trần bé bỏng mà vận chuyển đại 
				pháp luân, diệt hết nhận thức sai lầm trần tướng, sống hợp với 
				giác tánh cho nên Như Lai nhìn đâu cũng là tánh chơn như sáng 
				suốt nhiệm mầu. 
				 
				Tánh giác vốn trong sáng thanh tịnh, thường diệu, thường minh 
				nên được gọi là tánh giác diệu minh. Tánh giác luôn bao trùm 
				khắp pháp giới, là bản thể chân không nên không có trọng lượng, 
				kích thước, không tùy thuộc vào sự biến dịch của thời gian hay 
				sự thay đổi của không gian. Trong tánh diệu chân như ấy, tất cả 
				đều bình đẳng, không có lớn, không có nhỏ, không có một hay 
				không có nhiều mà tất cả đều là bất nhị, không hai không khác. 
				Vì Như Lai Tạng chính là tánh giác diệu minh chiếu soi khắp pháp 
				giới cho nên mới có khả năng bao bọc cho nhau, lớn nhỏ dung 
				nhiếp vào nhau. Do vậy mà trên đầu một sợi lông có thể hiện ra 
				tam thiên đại thiên thế giới, hiện ra các cõi nước Phật và trong 
				mây bụi trần mà Đức Phật chuyển bánh xe pháp. Nếu chúng sinh 
				diệt trần để quay về với tánh giác thì sẽ phát khởi chân như 
				diệu giác minh tánh. Chính Đức Phật đã chứng nhập pháp giới tánh 
				và Ngài đã diệu dụng pháp giới tánh đến chỗ tột cùng nên có thể 
				biến hiện tất cả hoàn toàn tự tại vô ngại.  
				 
				CHỈ NHƯ LAI TẠNG LÀ “PHI” (KHÔNG LÀ) TẤT CẢ 
				 
				Như Lai Tạng vốn là bản thể nhiệm mầu viên mãn. Tuy nhiên, nó 
				không phải là tâm, không phải là không, không phải địa, không 
				phải thủy, không phải hỏa, không phải phong. Nó không phải nhãn, 
				không phải nhĩ, không phải tỷ, không phải thiệt, không phải 
				thân, không phải ý. Nó không phải là sắc, không phải thanh, 
				không phải hương, không phải vị, không phải xúc, không phải 
				pháp. Nó không phải nhãn thức giới cho đến không phải ý thức 
				giới. Nó không phải minh, không phải vô minh, không phải hết vô 
				minh cho đến không phải lão tử, không phải hết lão tử. Nó không 
				phải khổ, không phải tập, không phải diệt, không phải đạo. Nó 
				không phải trí cũng không phải đắc. Nó không phải bố thí, không 
				phải trì giới, không phải nhẫn nhục, không phải tinh tấn, không 
				phải thiền định, không phải trí tuệ. Nó không phải là Như Lai, 
				là ứng cúng, chánh biến tri. Nó không phải đại niết bàn, không 
				phải thường, lạc, ngã, tịnh vì Như Lai Tạng không phải là pháp 
				thế gian mà cũng không phải là pháp xuất thế gian. 
				 
				Đoạn kinh trên cũng chính là Bát Nhã Tâm kinh. Đó là khi Quán Tự 
				Tại Bồ Tát đã hành thâm Bát Nhã đến chỗ rốt ráo tột cùng thì 
				Ngài thấy tất cả là không. Có thể nói rằng Bát Nhã Tâm kinh đã 
				được trích ra từ trong đoạn “Như Lại Tạng là “không là” tất cả” 
				của kinh Lăng Nghiêm cho nên Thủ Lăng Nghiêm mới được xiển dương 
				là kinh khai mở trí tuệ, giúp chúng sinh tiến sâu vào Bát Nhã, 
				thông hiểu tường tận tánh không mà nhập vào đại định để có giải 
				thoát giác ngộ. 
				 
				Cũng như Ngài Quán Tự Tại hành thâm Bát Nhã ba-la-mật-đa trong 
				Tâm Kinh, ở đây Như Lai Tạng bản thể cũng không có chứa bất cứ 
				tướng nào cả, cho dù đó là pháp thế gian hay pháp xuất thế gian. 
				Cái mà con người gọi là trí tuệ để đạt, Niết bàn để chứng đắc, 
				thành tựu Như Lai, Ưng cúng, Chánh biến tri, ngay cả lục căn, 
				lục trần, mười tám pháp giới… đều là tướng của thế gian, chớ 
				không phải là tướng của Như Lai Tạng bởi vì Như Lai Tạng là bản 
				thể chơn như của hiện tượng vạn pháp.  Vì thế khi hành giả 
				đi sâu vào đại định Thủ Lăng nghiêm thì tất cả các niệm ngay cả 
				vi tế niệm cũng không còn. Nếu tâm chúng sinh còn một chút vọng 
				niệm về thực chứng hay mong cầu mong đạt được đại định cho dù đó 
				là vi tế thì đại định biến mất. Nói cách khác khi chúng sinh ly 
				được tất cả các pháp của thế gian ngay cả xuất thế gian (chứng 
				đắc) thì mới có thể hòa nhập vào trong Như Lai Tạng bản tánh 
				thanh tịnh hoàn toàn mà được gọi là Thủ Lăng Nghiêm đại định. 
				 
				CHỈ NHƯ LAI TẠNG “TỨC” (LÀ) TẤT CẢ 
				 
				Nhưng cái bản thể nhiệm mầu viên mãn Như Lai Tạng lại cũng 
				tức là tâm, là không, là địa, là thủy, là hỏa, là phong. Cũng 
				tức là nhãn, là nhĩ, là tỷ, là thiệt, là thân, là ý. Cũng tức là 
				sắc, là thanh, là hương, là vị, là xúc, là pháp. Cũng tức là 
				nhãn thức giới cho đến ý thức giới. Cũng tức là minh, là vô minh 
				cho đến là lão tử, là hết lão tử. Cũng tức là khổ, là tập, là 
				diệt, là đạo. Cũng tức là trí, là đắc. Cũng tức là bố thí, là 
				trì giới, là nhẫn nhục, là tinh tấn, là thiền định, là trí tuệ 
				cho đến cũng tức là Như Lai, là ứng cúng, là chánh biến tri. 
				Cũng tức là đại niết bàn, là thường, là lạc, là ngã, là tịnh. Vì 
				vậy, Như Lai Tạng biểu hiện qua tất cả các pháp thế gian và xuất 
				thế gian. 
				 
				Đoạn kinh trên, Đức Phật dạy rằng trong Như Lai Tạng bản thể 
				chơn như thì tất cả đều là không. Không có các pháp thế gian 
				ngay cả đến các pháp xuất thế gian như chứng đắc, trí tuệ, Niết 
				bàn… cũng là không. Nhưng đến đoạn kinh này, Đức Phật lại dạy 
				rằng trong bản thể nhiệm mầu Như Lai Tạng thì tất cả các pháp 
				thế gian và xuất thế gian là có, là thật. Tại sao lại có sự mâu 
				thuẫn như vậy? Trong Như Lai Tạng bản thể chân như thì không có 
				tướng trạng nên tất cả đều hòa đồng, dung nhiếp nên gọi là 
				không. Nhưng trong cái chơn không lại duyên khởi một cách mầu 
				nhiệm để phát sinh ra mọi vật mà tạo thành cái thế giới hữu vi 
				sinh diệt này. Trong pháp giới duyên khởi gọi hiện tượng này là 
				bất biến tùy duyên nghĩa là từ cái chơn không mà diệu hữu ra tất 
				cả nên mới có pháp thế gian và ngay cả pháp xuất thế gian là 
				vậy. Nói cách khác hai đoạn kinh giúp chúng sinh thấu hiểu tường 
				tận ý nghĩa sắc tức là không và không tức là sắc để phá bỏ cái 
				chấp phải là “toàn sắc” hay “toàn không”. 
				 
				DÙNG PHẬT NHÃN NHÌN HIỆN TƯỢNG VẠN PHÁP, KHÔNG CÓ VẤN ĐỀ “LÀ” 
				HAY “KHÔNG LÀ” TRONG NHƯ LAI TẠNG BẢN THỂ CHÂN NHƯ NHIỆM MẦU 
				 
				Này Phú Lâu Na! Như Lai Tạng vốn nhiệm mầu trong sáng, vượt 
				ngoài sự phê phán đánh giá “là” hay “không là”. Vậy nên, chúng 
				sinh trong ba cõi và hàng Thanh văn, Duyên giác dùng cái tri 
				thức cạn cợt thì làm sao mà đo lường Bồ-đề vô thượng của Như 
				Lai. Đem ngôn ngữ hạn hẹp của thế gian mà diễn đạt cái tri kiến 
				Phật thậm thâm sao cho đến được. Ví như những cây đàn cầm, sắt, 
				không hầu, tỳ bà, tuy có tiếng hay, nhưng nếu không có ngón tay 
				thì rốt cuộc cũng không phát ra những tiếng hay. Ông và chúng 
				sinh cũng vậy. Chơn tâm giác minh mọi người đều đầy đủ. Thế mà 
				Như Lai ấn ngón tay thì rực rỡ hào quang, còn các ông vừa móng 
				tâm thì trần lao đã nổi dậy. Đó là do các ông không siêng năng 
				cầu vô thượng giác mà ham ưa pháp tiểu thừa, được chút ít cho là 
				đủ. 
				 
				Khi ra biển ngắm những làn sóng lặn hụp lên xuống thì sóng “là” 
				nước hay sóng “không là” nước? Nếu nói sóng và nước thì chắc 
				chắn sóng và nước là hai tức là sóng “không là” nước. Còn nếu 
				nói rằng nếu sóng mà không có nước thì làm gì có sóng do đó sóng 
				“là” nước và nước “là” sóng. Như vậy sóng là hiện tượng của nước 
				và nước là bản thể của sóng, tuy hai nhưng mà một bất khả phân 
				ly. Khi động (có gió) thì nước nổi thành sóng, nhưng khi tịnh 
				(gió tan) thì sóng trở về với thể tánh yên tịnh của nước vậy 
				thôi. Như Lai Tạng cũng vậy, là bất tức bất ly bởi vì Tạng là 
				tổng thể trùm chứa tất cả mọi nguyên nhân và kết quả của sự vật 
				hiện tượng. Còn Như Lai là thường hằng bất biến, nhưng trong cái 
				thường hằng bất biến này lại tùy duyên mà phát sinh ra muôn sinh 
				vạn vật. Đó là bất biến mà tùy duyên. Thí dụ, trong thế gian này 
				nơi nào cũng đều có đất tức là dạng của địa đại, nhưng cũng từ 
				đất này mà tùy duyên tạo thành nhà cửa, chén đĩa, lâu đài, thành 
				quách…. nhưng một ngày nào đó thì những sự tướng kia cũng theo 
				thời gian mà biến đổi và cuối cùng cũng trở về lại với đất. Đây 
				là tùy duyên mà bất biến vậy. 
				 
				Như Lai Tạng bây giờ nếu tùy duyên tác động vào tâm chúng sinh, 
				con người sẽ phát sinh ra những cảm giác vui buồn, hờn giận, 
				thương ghét, tốt xấu, hơn thua, phải quấy… nhưng nếu chúng sinh 
				biết xoay về bản thể chân thật của mình thì vui buồn tan biến, 
				thương ghét không còn và tâm sẽ trở về với tự tánh thanh tịnh 
				bất biến của nó. Nói cách khác, Như là bất biến còn Lai là tùy 
				duyên. Vì thế Như Lai là bất biến tùy duyên và cũng tùy duyên 
				bất biến. Có tùy duyên bất biến nên chúng sinh mới có thể hóa 
				giải vô minh phiền não để trở về sống với chơn tâm, tánh giác 
				diệu minh của chính mình. 
				Như Lai Tạng là bản thể 
				chơn như của tất cả hiện tượng vạn pháp,  vốn thanh tịnh 
				bản nhiên nên lìa tất cả các pháp. Vì thế trong Như Lai Tạng bản 
				thể, không có gì gọi là chứng đắc, không có gì gọi là đạt được 
				(bất khả đắc). Như Lai Tạng tuy rời tất cả tướng thế gian, nhưng 
				nó không phải là cảnh giới xa xôi nào khác vì Như Lai Tạng chính 
				là tất cả các pháp tức là Như Lai Tạng “là” và “không là”.  
				Con người vì sống trong vô minh điên đảo nên chỉ biết hiện tượng 
				vạn pháp mà không hề nghĩ đến bản thể Như Lai Tạng mầu nhiệm 
				này. 
				Nhưng nếu suy nghĩ kỷ lại 
				thì tất cả những thứ buồn vui, thương ghét, tánh tham, tật đố… 
				đều phát xuất từ bản tâm hoàn toàn thanh tịnh, trong sáng của 
				tất cả mọi người. Vì thế thanh tịnh thì do ta mà phiền não thì 
				cũng do ta do đó mà trong kinh Duy Ma Cật mới có câu: “Tùy kỳ 
				tâm kinh, tắc Phật độ tịnh” là vậy. Cái thể tánh tuyệt đối Như 
				Lai Tạng không thể dùng ngôn ngữ hạn hẹp của con người để chứng 
				nhập nó được. Thật ra cái thể tánh tuyệt đối đó con người vốn có 
				sẳn như Chư Phật, nhưng chúng sinh phải quay về thể nghiệm mà 
				trực nhận thể tánh ấy thẳng nơi tự tâm của mình (thực chứng Bát 
				nhã) chớ không thể chỉ biết nghiên cứu qua lời Phật dạy (văn tự 
				Bát nhã) mà quên đi tâm tánh của chính mình. 
				Ở đây, Phật ví Như Lai Tạng 
				như người có cây đàn tốt mà không biết đàn thì rốt cuộc cũng 
				không phát ra những âm thanh hay được. Bây giờ cây đàn tốt gặp 
				người chơi đàn giỏi thì sẽ phát ra những âm thanh huyền diệu 
				tuyệt vời. Như Lai Tạng cũng thế, tuy chúng sinh vốn đã có sẵn 
				tâm tánh nhiệm mầu, nhưng con người cần phải có trí tuệ sáng 
				suốt để phát khởi diệu dụng, quay về sống với chơn tâm thường 
				trú, tánh giác diệu minh của chính mình thì mới thoát khỏi trần 
				lao phiền não và phá trừ chấp ngã, chấp pháp mà có được giải 
				thoát giác ngộ. 
				Đức Phật vì tâm hoàn toàn 
				thanh tịnh nên chơn tâm hiển bày, Pháp thân hiển lộ nên Ngài có 
				hào quang sáng chói, rực rỡ huy hoàng. Ngược lại chúng sinh vì 
				tâm còn chất đầy vọng tưởng nên trần lao nổi dậy mà sống trong 
				điên đảo khổ đau. Đối với các vị trong hàng Thanh văn, Duyên 
				giác tuy mới chứng đắc lục căn thanh tịnh mà cho là đầy đủ nên 
				không cầu đạo vô thượng chánh đẳng chánh giác vì thế các vị 
				trong hàng Nhị thừa chưa thấy được Pháp thân thanh tịnh Như Lai, 
				chưa vào được trong Như Lai Tạng bản tánh chơn như. Không chứng 
				được Pháp thân thanh tịnh viên mãn thì làm sao thành Phật được? 
				 
				Nói tóm lại, trong tất cả mọi chúng sinh ai ai cũng đều có Phật 
				tánh, chơn tâm là bản tánh thanh tịnh Bồ-đề, nhưng con người vì 
				chạy theo dục vọng, làm nô nệ cho vô minh phiền não mà quên bỏ 
				đi cái trí tuệ Bồ-đề sẳn có của mình nên sống trong trần lao, 
				khổ ải và phải chịu sinh tử khổ đau. Bản tánh Bồ-đề vốn thanh 
				tịnh, nhưng vì một niệm vô minh mà sinh ra muôn vàn cảnh giới để 
				phải chịu sinh tử luân hồi. 
				 
				MÊ VỌNG KHÔNG CÓ NGUYÊN NHÂN. HẾT MÊ TỨC LÀ BỒ ĐỀ (GIÁC) 
				 
				Ông Phú Lâu Na thưa: 
				 
				- Bạch Thế Tôn! Chơn tâm thanh tịnh giác ngộ viên mãn của tôi và 
				của Như Lai không hai; vậy mà tôi thì bị vọng tưởng vô thỉ sai 
				sử cho nên ở trong luân hồi lâu xa nhiều kiếp. Nay dù được thánh 
				quả mà còn chưa rốt ráo. Thế Tôn thì các vọng tưởng được gạn lọc 
				sạch trong, còn thuần một tâm tánh chơn thường mầu nhiệm. Tôi 
				xin hỏi Như Lai: Tất cả chúng sinh do nguyên nhân nào mà có vọng 
				để rồi tự che mất tâm tánh sáng suốt nhiệm mầu của mình, phải 
				chịu luân hồi trôi nổi khổ đau? 
				 
				Câu hỏi này của Ngài Phú Lâu Na rất thực dụng cho hoàn cảnh của 
				tất cả chúng sinh vì Đức Phật dạy rằng trong tất cả mọi người ai 
				ai cũng đều có Phật tánh, chơn tâm thế mà tại sao chỉ có Như Lai 
				mới sống được trong tự tánh thanh tịnh nhiệm mầu này, còn chúng 
				sinh do nguyên nhân nào mà chạy theo khách trần phiền não trần 
				lao để phải chịu trôi mình trong sinh tử trầm luân? Vậy Như Lai 
				có chứng đắc gì chăng? Cái mà con người gọi là chứng đắc chẳng 
				qua là trở về với bản tánh cố hữu tức là bản lai diện mục của 
				mình vậy thôi. 
				Quả vị Phật mà Như Lai 
				chứng đắc là vô thực mà vô hư. Tại sao? Bởi vì quả vị Phật mà 
				Như Lai thành tựu thì không có hình tướng, không có màu sắc, 
				không có văn tự diễn tả nên cái chứng đắc này là không thật có, 
				không tìm đâu ra. Nhưng nếu không thật thì quả vị Phật phải là 
				hư? Thế mà cái chứng đắc trên lại là vô hư. Tại sao? Mặc dù 
				không ai thấy được hình tướng của sự chứng đắc, nhưng chính Đức 
				Phật có được bảo sở thanh tịnh Niết bàn, có được vô thượng Bồ-đề 
				nên Ngài không bao giờ còn bị vô minh phiền não quấy phá. Thế 
				thì cái chứng đắc chính là vô hư tức là có thật. 
				 
				Phật dạy rằng: 
				 
				Phú Lâu Na! Ông dù trừ được tâm nghi, nhưng tư tưởng mê lầm chưa 
				dứt. Ông há không nghe trong thành Thất La Phiệt có chàng Diễn 
				Nhã Đạt Đa vào một buổi sáng mai, đứng trước gương soi mặt, bỗng 
				dưng ham thích cái đầu trong gương, còn cái đầu của mình tự bấy 
				lâu nay anh ta cho là đồ yêu quái vì anh chẳng thấy được mày, 
				mắt, mặt, mũi, đẹp đẽ như cái mặt trong gương. Rồi chàng ta kinh 
				hãi phát điên ôm đầu chạy hoảng. 
				 
				Phú Lâu Na! Ông nghĩ thế nào! Diễn Nhã Đạt Đa do nguyên nhân gì 
				bỗng dưng phát điên ôm đầu chạy hoảng? 
				 
				- Bạch Thế Tôn! Tâm người ấy điên chớ không duyên cớ gì khác. 
				 
				- Phú Lâu Na! Tánh giác thì tròn đầy sáng suốt nhiệm mầu từ xa 
				xưa đến nay vẫn không lúc nào tạm vắng ở trong ông. Còn cái 
				vọng? Đã gọi là vọng thì làm sao có nguyên nhân! Nếu có nguyên 
				nhân thì sao gọi là vọng được? Vọng tưởng tự xoay vần làm nhân 
				cho nhau, từ cái mê này thêm cái mê khác tích lũy qua số kiếp 
				như vi trần cho nên dù Phật chỉ rõ mà ông hãy còn chưa biết trở 
				về. Cái nhân của mê do mê mà tự có. Biết được cái mê không có 
				nguyên nhân thì cái vọng không có chỗ gá sanh. Thế thì cái sinh 
				còn không có, còn đem cái gì để làm cái diệt? Giả sử có cái diệt 
				thì diệt để diệt cái gì? 
				 
				Phú Lâu Na! Người được đạo Bồ-đề ví như người tỉnh giấc, kể 
				chuyện trong chiêm bao. Tâm ghi nhớ rõ ràng nhưng không sao lấy 
				vật trong chiêm bao ra được. Huống chi cái mê vốn không, không 
				nhân, không gì cả thì tìm sao cho nó có cội nguồn? Như cái điên 
				của chàng Diễn Nhã đâu có nguyên nhân, tự sợ đầu mình mà bỏ 
				chạy. Khi hết điên thì cái đầu cũng vẫn là cái đầu của anh vốn 
				có. Lúc điên loạn, cũng không vì vậy mà anh tạm mất cái đầu. 
				 
				Phú Lâu Na! Tánh của cái vọng là như vậy, làm sao tìm có nguyên 
				nhân? Ông chỉ cần đi ngược dòng tương tục của ba thứ: Thế gian, 
				nghiệp quả và chúng sinh. Ba duyên đã chặt đứt thì ba nhân chẳng 
				có cơ sở để sanh. Bấy giờ cái tánh điên cuồng Diễn Nhã Đạt Đa 
				trong tâm ông tự hết. Hết tức là Bồ-đề. Cái chơn tâm trong sáng 
				khắp cùng pháp giới xưa nay, không do ai cho mà tự được, chẳng 
				cần tu chứng nhọc nhằn vất vả lôi thôi. Ví như người có hạt như 
				ý châu trong vạt áo mà không biết không hay, gần suốt cuộc đời 
				tha phương cầu thực cùng khổ lang thang bỗng có người thiện hữu 
				phát hiện, chỉ hạt châu cho, bấy giờ người cùng khổ trở thành 
				giàu có nhất đời. Ngồi gẫm lại nửa đời lưu lạc tự hận cho số 
				kiếp dại khờ. 
				  
				Thì ra viên như ý châu 
				không phải từ ngoài, ai đem đến. Trước khi trả lời ông Phú Lâu 
				Na về nguyên nhân nào mà có vọng để che mất tâm tánh sáng suốt 
				nhiệm mầu của mình, Đức Phật dùng phương tiện lấy một người điên 
				trong thành Thất La Phiệt mà làm thí dụ để diệt trừ mối nghi 
				hoặc trong tâm ông Phú Lâu Na. Anh chàng Diễn Nhã Đạt Đa một 
				buổi sáng mai, lấy gương soi mặt, thấy cái đầu trong gương mặt 
				mày, mắt, mũi đẹp đẽ mà nghĩ rằng cái đầu mình biến mất nên bổng 
				phát điên, rồi sợ hãi bỏ chạy. 
				 
				Vậy nguyên nhân nào khiến anh chàng này phát điên mà ôm đầu bỏ 
				chạy? Thật ra chả có nguyên nhân nào cả, chỉ vì anh ta sống 
				trong mộng tưởng điên đảo, lấy giả làm chân rồi đâm ra sợ hãi bỏ 
				chạy. 
				 
				Bát Nhã Tâm kinh dạy rằng: “Y Bát Nhã ba-la-mật-đa cố, tâm vô 
				quái ngại cố, vô hữu khủng bố, viễn ly điên đảo mộng tưởng cứu 
				cánh Niết bàn” nghĩa là Bồ-tát y theo Bát Nhã ba-la-mật-đa nên 
				tâm không còn ngăn ngại. Vì không ngăn ngại, nên không còn sợ 
				hãi, xa lìa điên đảo, mộng tưởng và đạt đến cứu cánh Niết bàn. 
				Vậy anh chàng Diễn Nhã Đạt Đa nếu không phải sống trong mộng 
				tưởng điên đảo chớ là gì? 
				 
				Nếu đã là mộng tưởng thì làm gì có thật. Tưởng là những sự phân 
				biệt thương ghét, vui buồn, hờn giận hằng ngày. Còn mộng cũng là 
				những sự phân biệt vui buồn, thương ghét nhưng ở trong chiêm bao 
				vì thế mộng, tưởng đều là vọng thức, là giả huyển, là không 
				thật. Cho nên Bồ-tát nếu lìa xa những vọng thức giả huyển này 
				thì tâm mới được thanh tịnh mà có được Niết bàn. Vậy vọng thì 
				làm gì có nguyên nhân. 
				Tại vì con người còn chấp 
				ngã, chấp pháp nên sinh ra vọng. Nhưng tâm tánh của con người 
				luôn luôn sáng suốt nhiệm mầu, lúc nào cũng ở trong tâm của 
				chúng sinh, chớ không bao giờ mất cả. Con người vì nhận thức chủ 
				quan sai lầm thiếu sáng suốt nên vọng thức mới sanh. Cái vọng 
				này sang cái vọng khác, xoay vần mãi mãi trong vô lượng kiếp 
				ngay đến khi được Phật chỉ dạy rõ ràng mà vẫn không chịu giác 
				ngộ tâm tánh của mình. Có hồi đầu thị ngạn, quay về với chơn tâm 
				thường trú và thể tánh tịnh minh của mình thì vọng tan, chơn 
				hiện mà sống trong thanh tịnh, an lạc của Niết bàn. 
				 
				Vọng là do mê, là tánh mê, tánh bất giác chớ không có nguyên 
				nhân gì khác. Vì thế trong Bát Nhã, không có cái gì gọi là diệt. 
				Không có vô minh cũng không có cái hết vô minh. Không có tuổi 
				già sự chết và cũng không có cái hết tuổi già sự chết. Không có 
				khổ, tập, diệt, đạo, không có trí tuệ cũng không có chứng đắc 
				chi cả. Vì là phàm nhân nên  còn thấy có vô minh phiền não 
				cần phải diệt. Còn thấy có khổ, tập, diệt, đạo nên cần tu chứng 
				để có trí tuệ và chứng đắc. 
				Nhưng trong trí tuệ Bát Nhã 
				thì vạn pháp duyên sanh như huyễn nên không có cái gì là thật 
				cả. Đã là không thật thì lấy gì để diệt, để trừ, để chứng, để 
				đắc, vô minh hay hết vô minh. Đối với phàm nhân thì họ nhìn thế 
				gian là thật, đau khổ là thật, vô minh là thật, phiền não là 
				thật nên cả đời lo tìm cách hóa giải, diệt trừ. Trừ phiền não 
				này chưa xong, phiền não khác lại đến. Vô minh này chưa hết thì 
				vô minh khác lại hiện ra nên cả đời sống trong điên đảo khổ đau. 
				Ngược lại, Bồ-tát cũng nhìn cái thế gian này mà đối với họ tất 
				cả đều là huyển nên tâm không bao giờ dính mắc. Phàm nhân thấy 
				cái gì cũng thật nên mới ham, mới thích khiến tham-sân-si dấy 
				khởi mà tạo nghiệp để phải chịu quả khổ đời đời. 
				 
				Người mê ví như người còn ngủ trong giấc chiêm bao, thấy cảnh 
				tượng cho là thật nên mới có khổ vui, thương ghét, hờn giận đến 
				khi thức tỉnh thì cảnh hãi hùng tan biến, cơn ác mộng bay đi vì 
				tất cả chỉ là giả huyển. Cũng như anh chàng Diễn Nhã Đạt Đa khi 
				điên thì ôm đầu chạy, nhưng cái đầu đâu có mất bao giờ. Con 
				người cũng thế. Tuy chúng sinh sống trong vô minh phiền não, 
				nhưng tánh giác diệu minh, chơn tâm vĩnh hằng của mình không hề 
				bị mất. Khi thức tỉnh giác ngộ thì chơn tâm tự hiển bày, vô minh 
				phiền não biến mất. Trong đạo Phật không hề có chứng đắc. 
				Tại sao? Bởi vì một khi 
				chúng sinh biết hồi đầu thị ngạn, biết quay thuyền trở lại bến 
				xưa để sống đúng với chơn tánh, với tánh giác trong sáng của 
				mình thì người đời gọi là chứng đắc chớ thật ra cái tánh giác 
				trong sáng kia đã có sẳn trong tất cả mọi chúng sinh rồi vì thế 
				tu hành trong nhà Phật thì gọi là hồi đầu thị ngạn thế thôi. 
				Cũng như người trong túi đã có sẵn viên ngọc bích mà không biết 
				nên cả đời sống trong lầm than đau khổ. Nay có người thương tình 
				chỉ cho nên đem viên ngọc bán đi thì cái nghèo biến mất, đâu 
				còn. Nhưng nghĩ lại viên ngọc bích lúc nào cũng có chớ đâu phải 
				làm ăn khổ cực gì để tạo ra hay do ai cho? 
				 
				Vậy đoạn kinh này dạy chúng sinh phải tin vào khả năng thành 
				Phật của mình mà khi thành đạo, chính Đức Phật đã khẳng định 
				rằng: “Nhất thiết chúng sinh giai hữu Phật tánh, giai kham tác 
				Phật” nghĩa là trong tất cả mọi chúng sinh, ai ai cũng đều có 
				Phật tánh, đều có khả năng thành Phật. Chúng sinh phải tin vào 
				khả năng hóa giải tất cả mọi vô minh phiền não bằng chính khả 
				năng và nghị lực của chính mình. Người đệ tử Phật không thể cầu 
				khẩn nơi thần thánh, tha nhân nào đó hay gởi gắm tâm hồn nơi vô 
				định để có được an vui hạnh phúc, Bồ-đề hay Niết bàn là một sự 
				tin tưởng sai lầm đáng thương xót. 
				 
				Con người vì chạy theo trần cảnh làm nhiễm ô tâm tánh của mình 
				mà phát sinh ra ngã chấp và pháp chấp. Ngày xưa Đức Phật chỉ có 
				tam y nhất bát, ngày ngày đi khất thực thính chúng, đêm ngủ dưới 
				gốc cây không quá ba ngày cũng là một hình thức đối trị để phá 
				bỏ hoàn toàn ngã chấp. Hễ có chấp ngã như địa vị, chức tước, 
				quyền hành… thì sẽ có ngã sở hữu như danh vọng, tiền tài, nhà 
				cửa, xe cộ… Con người có làm những điều tàn ác, giết hại lẫn 
				nhau cũng chỉ vì muốn bảo vệ bản ngã và ngã sở hữu của mình mà 
				cội nguồn của nó vẫn là vô minh, si mê tăm tối. Bao cuộc chiến 
				tranh trên thế giới từ xưa đến nay cũng không ngoài mục đích 
				thỏa mãn bản ngã và ngã sở hữu của mình. 
				 
				LẠI RƠI VÀO NHẬN THỨC ĐỐI ĐÃI CỦA THUYẾT NHƠN DUYÊN VÀ TỰ 
				NHIÊN 
				 
				Bấy giờ ông A Nan đảnh lễ dưới chân Phật mà bạch rằng: 
				 
				- Đức Thế Tôn nói về các nghiệp sát, đạo, dâm và ba duyên đoạn 
				rồi thì ba nhân không sanh, tánh Diễn Nhã Đạt Đa trong tâm tự 
				hết. Hết tức Bồ-đề, không do ai đem đến. 
				 
				- Bạch Thế Tôn! Như thế rõ là nhân duyên rồi, tại sao Như Lai 
				bác bỏ nghĩa nhân duyên? Chẳng riêng gì tôi mà một số Thanh Văn 
				trong hội này: Mục Kiền Liên, ông Xá Lợi Phất, ông Tu Bồ-đề… đều 
				do nghe lý nhân duyên của Phật mà phát tâm tỏ ngộ, được thành 
				quả lậu. 
				 
				Nay Phật dạy Bồ-đề không do nhân duyên, vậy thì các thuyết tự 
				nhiên của bọn ngoại đạo Câu Xa Ly, thành Vương Xá lại là đệ nhất 
				nghĩa rồi sao? Xin Phật rũ lòng đại bi chỉ giáo cho kẻ chưa hết 
				mê mờ. 
				  
				Diệu tánh bản nhiên vốn tự 
				viên thành chớ không do người khác đưa tới và cũng không phải 
				nhờ khổ công tu tập. Trong đoạn kinh trên, Đức Thế Tôn bất đắc 
				dĩ tạm mượn chuyện anh chàng Diễn Nhã Đạt Đa mê cái đầu để chứng 
				minh điều đó nhằm khai thị cho chúng sinh biết nguồn vọng vốn 
				không nhân. Bởi diệu giác minh tâm xưa nay không hư vọng, mà đã 
				là vọng thì đâu có nhân gì bởi vì có nhân thì không gọi là vọng 
				được. Ba duyên tức là sát, đạo, dâm đã dứt thì ba nhân tức là 
				thế giới, chúng sinh và nghiệp quả cũng không thể phát sinh 
				được. Thế thì diệu giác minh tâm xưa nay vốn không mê, không 
				phải có được do bên ngoài cũng giống như tâm điên của Diễn Nhã 
				Đạt Đa nếu hết thì anh chàng này sẽ biết rằng cái đầu kia không 
				phải do bên ngoài mà được. 
				Tuy A Nan nghe Phật nói 
				diệu tâm đốn chứng chớ không phải nhờ sự tu hành, nhưng tôn giả 
				vẫn cho rằng đó là do nhân duyên bởi vì A Nan nghĩ rằng Phật 
				tánh nhờ nhân duyên mà hiển bày. Mà Phật tánh là thứ sẵn có chớ 
				không cần tu mà được thì rõ ràng Phật tánh chính là tự nhiên 
				rồi. Thêm nữa, ông A Nan lại còn dẫn chứng nhiều vị đệ tử Phật 
				và ngay cả ông nữa, cũng do nhân duyên mà được giác ngộ. Vì thế 
				nếu giác ngộ không do nhân duyên, thì không lẽ giác ngộ lại do 
				tự nhiên và đã là tự nhiên thì giáo pháp của Như Lai có khác gì 
				những thuyết tự nhiên của ngoại đạo? Trên thế gian này tất cả 
				hiện tượng vạn hữu không có sự vật nào tự nhiên mà có. Muốn no 
				thì phải ăn chớ không tự nhiên mà no được. 
				Ngay cả trong thiên nhiên 
				như mưa, nắng, bão tố cũng không có cái gì là tự nhiên cả. Hằng 
				năm vào mùa hè, những tiểu bang miền trung Tây Hoa Kỳ và dọc 
				theo vịnh Mễ Tây Cơ thường có những cơn bão và gió lốc tàn phá 
				nhà cửa và giết hại chúng sinh. Thật ra khi khí nóng từ miền Nam 
				gặp khí lạnh từ miền Bắc tạo thành những vòng xoáy với vận tốc 
				rất lớn mà con người gọi là gió lốc. Nếu không có những dòng khí 
				nầy thì làm gì tự nhiên mà có gió lốc được? Lý luận của A Nan 
				chứng tỏ ông chưa thật viên ngộ chơn tâm, Như Lai tạng tánh, 
				diệu giác minh tâm, bản thể chơn như của hiện tượng vạn pháp bởi 
				vì nhân duyên chỉ đúng trong thế giới tương đối còn trong thế 
				giới bản thể tuyệt đối, đệ nhất nghĩa đế thì làm gì có nhân 
				duyên hay tự nhiên. Mà chưa viên ngộ thì không thể viên tu được 
				cũng bởi vì ông A Nan học rộng nhớ nhiều mà không chịu tu chứng 
				nên còn thấy biết lầm lẫn. Có rời văn tự, ly ngôn thuyết mới 
				nhận chứng được Bản thể chơn như. 
				 
				Bây giờ Phật mới bảo rằng: 
				 
				- A Nan! Theo ý ông thì chàng Diễn Nhã Đạt Đa kia, nếu diệt trừ 
				hết “nhân duyên điên” thì tánh “tự nhiên không điên” hiện ra. Lý 
				nhân duyên tự nhiên theo hiểu biết của ông, luận đến cùng là như 
				vậy? 
				Này! A Nan! Cái đầu 
				chàng Diễn Nhã Đạt Đa vốn là “tự nhiên”. Nếu nó đã “tự nhiên”, 
				vậy do “nhân duyên” gì mà sợ cái đầu phát điên ôm chạy? Đầu vốn
				“tự nhiên” vì “nhân duyên” gì mà điên? 
				Tại sao không vì “nhân Duyên” gì mất đi để khỏi điên?  Cái 
				đầu không mất, cũng chẳng thay đổi chút nào. Còn cái điên là do 
				mê vọng mà có, không bởi, cũng chẳng tại “nhân duyên” mà có ra. 
				Nếu tánh điên vốn “tự nhiên”, tự nhiên sẵn có tánh hoảng sợ, vậy 
				lúc chưa điên, cái điên ẩn trú chỗ nào? Tánh hoảng sợ nương náu 
				ở đâu? Nếu tánh không điên là tự nhiên thì trong đầu chẳng có 
				việc gì, cớ sao lại phải phát điên ôm đầu chạy?  
				  
				Nếu hiểu kỹ rằng: Cái 
				đầu là đầu của mình sẵn có rồi. Biết chắc rằng: vì điên mà ôm 
				đầu chạy hoảng thì cái thuyết “nhân duyên” “tự nhiên” đều là hý 
				luận. Thế nên Như Lai nói: 
				Ba duyên đoạn rồi là 
				Bồ-đề tự hiện. Nếu bảo rằng: Đoạn ba duyên rồi thì Bồ-đề tâm 
				sanh, vì tâm sanh diệt đã diệt thì đó cũng chỉ là “sanh”, “diệt” 
				trong vòng đối đãi. Diệt và sanh đều xóa hết, mới đến chỗ “vô 
				công dụng”. Ông A Nan xưa nay luôn chấp vào quan niệm nhân 
				duyên, tự nhiên cũng là việc thường tình vì ông chưa thâm nhập 
				vào bản thể chân như, vào chơn tâm tuyệt đối.  
				  
				Giáo lý của Đức Phật có thể 
				chia làm hai mặt: Nếu đứng về phương diện không gian thì đạo 
				Phật chủ trương rằng vạn pháp là do nhân duyên hòa hợp mà thành. 
				Còn đứng về phương diện thời gian thì vạn pháp là do nhân và quả 
				mà thành tựu. 
				Thí dụ vì do nhân duyên như 
				gạch, ngói, cây, gỗ nên cái nhà được xây dựng. Trong khi đó, nếu 
				ngày nay chuyên cần học tập thì năm mười năm sau chúng ta sẽ có 
				nghề nghiệp vững chắc. Nhưng đây chỉ là chân lý tục đế tức là 
				chân lý tương đối, có sinh có diệt. Còn đệ nhất nghĩa đế là chân 
				lý tuyệt đối, bất sinh bất diệt, vô cùng vô tận thì làm gì có 
				nhân duyên hay tự nhiên. Vì thế Đức Phật mới mượn câu chuyện anh 
				chàng Diễn Nhã Đạt Đa để khai thị cho A Nan. Nếu nói rằng Diễn 
				Nhã Đạt Đa tự nhiên điên thì không đúng. Bởi vì trước khi chưa 
				điên thì “cái tự nhiên điên” nó ở đâu? 
				Còn nếu cho rằng Diễn Nhã 
				Đạt Đa tự nhiên điên thì lúc nào anh chàng này cũng điên chớ đâu 
				phải đợi đến lúc soi mặt mình trong gương thì mới phát điên ôm 
				đầu chạy. Vậy thuyết “tự nhiên” dĩ nhiên là không đúng cho nên 
				Phật mới bác bỏ. Nếu tự nhiên không đúng thì nhân duyên như thế 
				nào? Nếu cho rằng vì do nhân duyên mà anh chàng Diễn Nhã Đạt Đa 
				bị điên, ôm đầu chạy như thế khi cơn điên hết thì nhân điên và 
				duyên điên ở đâu, cái nhân duyên điên đó phát xuất từ chỗ nào? 
				Nếu đã là tự nhiên không điên thì nhân duyên gì phát điên ôm đầu 
				chạy hoảng? Nhân đã không tìm thấy thì duyên làm sao có được. Vì 
				thế thuyết tự nhiên sinh, tự nhiên có không phải là của Phật 
				giáo, không đúng chân lý mà là triết lý của Lão Tử trong Đạo Đức 
				kinh. Còn nói về nhân duyên là nói về tục đế tức là giáo lý 
				tương đối nhưng trong đệ nhất nghĩa đế không hề có nhân duyên và 
				cũng chẳng có tự nhiên. 
				 
				Phật lại dạy rằng: 
				 
				A Nan! Bồ-đề Niết bàn còn xa, nếu ông không siêng năng tu tập, 
				dù ông có nhớ diệu nghĩa 12 bộ kinh của thập phương Như Lai cũng 
				chỉ thêm nhiều hý luận. Dù ông có huân tập đa văn, ông cũng 
				không tự hóa giải nạn Ma Đăng Già, dù nhiều kiếp nhớ ghi diệu 
				pháp của Phật, cũng không bằng một ngày chuyên tu vô lậu nghiệp. 
				Xa lìa hai khổ thương ghét thế gian. Ma Đăng Già trước kia là 
				dâm nữ, do được nghe Thủ Lăng Nghiêm mà diệt được lòng ưa muốn. 
				Nay trong Phật pháp nàng có tên Tánh tỳ kheo ni, cùng với mẹ La 
				Hầu La là Da Du Đà La, đồng ngộ nhân trước, biết đã trải qua 
				nhiều đời, nhân vì tham ái mà khổ, một niệm huân tu pháp vô lậu 
				thiện, thì người đã ra khỏi ràng buộc, người thì được Phật thọ 
				ký, làm sao, ông còn tự dối mình, mắc míu mãi trong vòng nghe 
				thấy. 
				 
				A Nan là một điển hình cho chúng sinh tập khí giỏi văn chương, 
				giàu ngôn từ, nhưng không chịu tham thiền, nhập định nên không 
				bao giờ thấy được Pháp thân thanh tịnh của mình. Tuy Phật pháp 
				cao siêu mầu nhiệm và được dung chứa trong 12 bộ kinh, nhưng Đức 
				Phật giáo hóa chúng sinh dựa theo 8 phương thức (tám khoa) khác 
				nhau : 
				 
				1) Tạng giáo: là các pháp môn tu học có dạy chung trong tam tạng 
				kinh (Kinh tạng, Luận tạng và Luật tạng). 
				 
				2) Thông giáo: là giáo pháp dạy chung cho tất cả ba hạng căn cơ 
				: Thượng, Hạ, Trung và ba thừa : Tiểu, Trung và Đại. 
				 
				3) Biệt giáo: là giáo pháp dạy riêng cho mỗi căn cơ hoặc Thượng, 
				hoặc Trung, hoặc Hạ, hoặc riêng cho Tiểu thừa, hoặc riêng cho 
				Trung thừa, Duyên giác, hoặc riêng cho Đại thừa Bồ-tát. 
				 
				4) Viên giáo: là giáo pháp viên tròn, đầy đủ cũng còn gọi là 
				“liễu nghĩa”. Thí dụ như kinh Hoa Nghiêm chỉ chuyên dạy cho các 
				hàng Bồ-tát Đại sĩ Pháp thân (từ Thập trụ đến Thập Địa Bồ-tát). 
				 
				5) Đốn giáo: là giáo pháp đốn ngộ tức là giác ngộ nhanh chóng. 
				Đây là pháp môn trực chỉ nhân tâm kiến tánh thành Phật hay là 
				“Trực chỉ Thiền” của Tổ Bồ-đề Đạt Ma hay Lục Tổ Huệ Năng. 
				 
				6) Tiệm giáo: là giáo pháp dạy tu chứng dần dần, từ bậc thấp lên 
				đến bậc cao. Thiền thì có Ngài Thần Tú và cũng là Tịnh độ pháp 
				môn. 
				 
				7) Bí mật giáo: là dạy vế cách bắt ấn, trì chú, tam mật tương 
				ưng tức thân thành Phật. Nói cách khác thân, khẩu, ý của mình 
				tương ứng với thân, khẩu, ý của Phật. Đây là Mật tông. 
				 
				8) Bất định giáo: là giáo pháp mà Đức Phật tùy theo cơ nghi 
				thuyết dạy chớ không nhất định là phải thuộc riêng về một căn cơ 
				nào cả. 
				  
				Khi Phật giáo du nhập vào 
				Trung Hoa vào thế kỷ thứ 7, ở phương Bắc có Ngài Thần Tú trong 
				khi đó ở phương Nam có Lục Tổ Huệ Năng. Chính Lục Tổ đã dạy 
				chúng sinh “Trực chỉ thiền” mà về sau được chia ra làm năm 
				nhánh. Đó là Vân Môn, Pháp Nhãn, Tào Động, Quy Ngưỡng và Lâm Tế.  
				Tất cả hiện tượng vạn pháp đều phát nguyên từ bản thể chơn như 
				mầu nhiệm, nhưng con người phải lìa văn tự, ly ngữ ngôn, hồi 
				quang phản chiếu để thấy được bản tâm thanh tịnh thì Bồ-đề, Niết 
				bàn mới hiển lộ. 
				Tuy nhiên, người đệ tử Phật 
				khi tu hành để muốn được chứng đắc nên dùng tâm muốn lấy, muốn 
				kiến, muốn đắc thì họ lại lọt vào vọng rồi. Thí dụ, tham thiền 
				để muốn được kiến tánh tức là kiến tánh thành Phật hay niệm Phật 
				để muốn được nhất tâm thì tâm này là vọng tâm. Tại sao? Bởi vì 
				Phật của mình đã thành sẵn rồi chớ không phải khi kiến tánh mới 
				đắc được, do vậy mà chư Tổ đã dạy rằng: “Vô sở cầu, vô sở đắc, 
				vô sở sợ” là vậy. Nếu còn hy vọng chứng đắc là vọng. Vì thế Đức 
				Thế Tôn mới thương xót khuyên A Nan cố gắng tu hành. Bồ-đề, Niết 
				bàn vẫn còn xa lắm nếu A Nan không siêng năng trải qua nhiều 
				kiếp tu hành thì không thể chứng nghiệm chân lý. 
				Cho dù A Nan có ghi nhớ 
				toàn bộ 12 bộ kinh thì cũng chẳng ích lợi gì. Đa văn là do nhiều 
				kiếp huân tập mà có, nhưng vẫn không tránh khỏi nạn Ma Đăng Già 
				mà phải nhờ thần chú Thủ Lăng Nghiêm mới giải cứu ông ta được. 
				Vì thế tuy A Nan trải qua nhiều kiếp học rộng, biết nhiều nhưng 
				vẫn không bằng một ngày tu vô lậu nghiệp. Đến như dâm nữ Ma Đăng 
				Già và công chúa Da Du Đà La chỉ cần một niệm huân tu vô lậu 
				thiện mà một người đã thoát ly phiền trược trở thành A la hán, 
				một người được Phật thọ ký về sau sẽ thành Phật (kinh Pháp Hoa). 
				Còn A Nan là một nam tử đại 
				trượng phu cớ sao không dũng mãnh huân tu mà còn mắc kẹt trong 
				vòng nghe thấy (kiến, văn, giác, tri). Người đệ tử Phật phải tin 
				rằng mình đã sẳn có diệu tâm sáng tỏ, không phải do tu mới 
				thành, do chứng mới đắc. Tất cả kinh điển của Phật chỉ là phương 
				tiện dùng để phá tư tưởng chấp thật của mình. Vì thế, khi thức 
				tỉnh thì mới biết mình có tất cả. Tự tánh Bồ-đề, tự tánh Niết 
				bàn thì lúc nào cũng sẵn có trong tất cả mọi chúng sinh cũng như 
				mây tan thì trời sáng hay đào ao có nước thì ánh trăng sẽ hiện 
				mà không cần phải trông chờ mong đợi gì hết.  
				
				
				 |  
				 |