|   ÔNG A NAN NGHI NGỜ 
				RẰNG KIẾN, VĂN, GIÁC, TRI KHÔNG CÓ TỰ THỂ. 
				 
				Bạch Thế Tôn! Ông A Nan thưa: Theo lời Thế Tôn dạy chỗ phát 
				tâm cầu được thường trụ trong lúc tu nhân, cốt yếu cần phải cân 
				xứng với những đức tính trong lúc chứng quả. Bạch Thế Tôn! Như 
				trong quả vị, nào là Bồ-đề, Chân như, Phật tánh, Am ma la thức, 
				Không Như Lai Tạng, Đại viên cảnh trí. Bảy thứ danh hiệu tuy có 
				khác nhau, nhưng thế tánh đều thanh tịnh viên mãn, vững chắc như 
				Kim cương vương, thường trụ như hư không bất hoại.Bottom 
				of Form 
				 
				Bạch Thế Tôn! Cái tánh thấy, nghe, ngửi, nếm, xúc, biết rời các 
				tướng tối, sáng, động, tĩnh, thông, bít, nhạt, mặn, hợp, ly cho 
				đến như tâm niệm tư duy rời tiền trần không có cái nào còn tự 
				thể. Vậy thì lấy cái gì làm nhân tu hành để cầu Vô Thượng Giác 
				rắn chắc như Kim cương vương, thường trú bất hoại như hư không 
				ấy? 
				 
				Xin Phật rũ lòng đại từ khai thị chỗ mê chấp cho tôi! 
				 
				Trong đoạn nghĩa quyết định thứ nhất Phật dạy rằng: “Chúng 
				sinh chỉ có thể nương theo cái tâm thường trụ, bất biến, không 
				sinh diệt để làm nhân địa tu hành thì mới thấy được chơn tâm, 
				Phật tánh của chính mình”. Trong đoạn nghĩa quyết định thứ hai 
				Phật lại dạy: “Tánh thanh tịnh nhiệm mầu bị dính nơi sáu căn, 
				cần phải mở cái nút ấy ra mới được giác ngộ”. Nói cách khác 
				không thể đem sáu căn còn bị dính mắc, mê lầm mà tu chứng thành 
				quả vô lậu được. Và sau cùng đoạn kinh trên Phật dạy ông A Nan 
				và đại chúng nên chọn một trong sáu căn làm nhân địa tu hành vì 
				một căn dễ tận diệt tận gốc rễ tất cả vô minh phiền não mà thấy 
				được chơn tâm, Phật tánh của mình. Nói cách khác chúng sinh chỉ 
				cần chọn cho mình một căn dễ thâm nhập, công dụng dễ thành mà 
				tiến tu để phá trừ chấp ngã, chấp pháp và đạt được tánh viên 
				thông vô ngại thì những căn còn lại đồng thời đều được thanh 
				tịnh. 
				 
				Đến đây ông A Nan đã thấu hiểu rằng tuy các quả sở chứng có 
				nhiều, nào là Chơn như, nào là Bồ-đề, nào là Am ma la thức, nào 
				là Không Như Lai Tạng… nhưng tất cả đều có chung thể tánh thanh 
				tịnh viên mãn. Thế nhưng ông lại nghi rằng nếu mà tiền trần tự 
				nó diệt mất thì những tâm niệm của ông cũng bị diệt theo. Do vậy 
				mà tâm ngã và tâm sở cũng không còn tức là tướng của bản ngã và 
				tướng của hình trạng vạn hữu bên ngoài cũng tan biến. Như thế 
				thì lấy cái gì làm nhân căn bản để tu hành mà thành giác ngộ? 
				 
				KHAI THỊ TÁNH NGHE LÀ THƯỜNG CÒN 
				 
				Phật bảo: 
				- A Nan! Nay tôi đem 
				việc thông thường trước mắt, phương tiện tháo gở mối nghi của 
				ông. Bấy giờ Phật bảo ông La Hầu La đánh một tiếng chuông, rồi 
				hỏi ông A Nan rằng: 
				 
				- A Nan ! Ông có nghe không? 
				- Có nghe. Ông A Nan và 
				đại chúng đồng thưa. 
				 
				Chuông hết kêu, không còn tiếng, Phật lại hỏi rằng: 
				 
				- Nay ông có nghe chăng? 
				 
				- Không nghe. Bạch Thế Tôn. 
				 
				La Hầu La lại đánh một tiếng chuông nữa, Phật lại hỏi rằng: 
				 
				- Ông có nghe chăng A Nan? 
				 
				- Có nghe. Bạch Thế Tôn. 
				 
				Phật hỏi: 
				 
				- Thế nào thì ông có nghe? Còn thế nào thì ông không nghe? 
				Ông A Nan và đại chúng đồng bạch Phật rằng: 
				 
				- Có tiếng chuông kêu thì chúng tôi được nghe, hồi lâu tiếng 
				dứt, âm vang không còn thì không còn nghe nữa. 
				Đức Phật lại bảo ông La Hầu La đánh chuông rồi hỏi tiếp: 
				 
				- Theo ông hiện nay có tiếng không? 
				 
				- Có tiếng. Bạch Thế Tôn! 
				 
				Hồi lâu, tiếng chuông dứt bặt, Phật lại hỏi: 
				 
				- Hiện giờ có tiếng không? 
				 
				- Không tiếng, Bạch Thế Tôn! 
				 
				Phật bảo : 
				 
				- Thế nào ông gọi là có tiếng. Còn thế nào thì ông gọi là không 
				tiếng? 
				Ông A Nan và đại chúng đồng thưa: 
				 
				- Có đánh chuông, tiếng chuông ngân vang thì gọi là có tiếng, 
				giây lâu tiếng hết, âm vang không còn thì gọi là không tiếng. 
				 
				Phật bảo: 
				 
				- Ông A Nan và đại chúng rằng: Sao hôm nay các ông nói lộn xộn 
				điên đảo như thế? 
				 
				Đại chúng và A Nan bạch Phật : 
				 
				- Vì đâu Phật bảo chúng tôi lộn xộn và điên đảo? 
				 
				Bây giờ Phật mới dạy rằng: 
				 
				- Tôi hỏi về cái nghe thì các ông nói là nghe! Tôi hỏi về tiếng 
				thì các ông cũng nói là tiếng! Chỉ có cái nghe và tiếng mà các 
				ông trả lời không nhất định, còn không phải lộn xộn điên đảo là 
				gì? 
				 
				- A Nan! Biết có, biết không là do có tiếng hay không có tiếng. 
				Có tiếng thì nghe động, không tiếng là nghe tĩnh, chứ không phải 
				không tiếng, tánh nghe không còn. Nếu tánh nghe không còn thì 
				lấy cái gì để biết là không tiếng? 
				 
				- A Nan! Cái tiếng đối với tánh nghe tự có sinh có diệt, nhưng 
				không phải vì sự sinh hay diệt của tiếng mà tánh nghe của ông 
				tùy có tùy không. Ông còn lộn lạo lầm cái tiếng mà cho là cái 
				nghe, thảo nào chẳng mê mờ cái viên thường mà cho là đoạn diệt. 
				Ông không nên lầm tưởng rời các thứ động, tĩnh, tối, sáng, 
				thông, bít, … là cái nghe… không còn. Ông nên hiểu rằng: Tánh 
				nghe không những “thường hằng” trong khi thức mà nó “thường 
				hằng” cả trong lúc ông ngủ say sưa! 
				 
				- Chúng sinh từ vô thỉ đến nay, theo sự lôi cuốn của sắc, thanh 
				theo vọng niệm mà lưu chuyển, không hồi quang phản chiếu cái bản 
				tánh thanh tịnh diệu thường, bỏ sót mất tánh thường chỉ buông 
				xuôi theo dòng sinh diệt. Do vậy đời đời sống trong tạp nhiễm mà 
				phải luân chuyển khổ đau. Nếu biết rời bỏ những cái sinh diệt, 
				giữ lại tánh chân thường sáng suốt nhiệm mầu thì lục căn, lục 
				trần, lục thức tiêu vong tại chỗ. Bởi vì trần là cái tướng của 
				vọng tưởng và cấu là vọng tình phân biệt của con người. Xa lìa 
				hai thứ trần cấu thì pháp nhãn của ông tức thì trong sáng. Cái 
				nhận thức của ông bấy giờ là nhận thức của con người Vô Thượng 
				Chánh Biến Tri Giác đồng với chư Phật mười phương ba đời vậy. 
				 
				Tuy A Nan đã biết các sự mê lầm dựa theo lời Phật dạy, nhưng 
				chính ông chưa trực nhận được cái mê lầm nầy. Để giải mối nghi 
				ngờ của ông A Nan, bây giờ Phật bảo tôn giả La Hầu La đánh 
				chuông. Khi Phật hỏi có nghe, không nghe thì ông A Nan cũng đáp 
				có nghe, không nghe. Đến khi Phật hỏi có tiếng, không tiếng thì 
				ông A Nan cũng đáp có tiếng, không tiếng. Chính ông A Nan và đại 
				chúng đã lầm lẫn cái nghe với cái tiếng tức là không phân biệt 
				rõ ràng cái gì là “căn tánh” và cái gì là “trần cảnh”. Dựa theo 
				A Nan là khi không nghe tiếng thì gọi là không nghe, nhưng nếu 
				suy nghĩ kỷ lại thì nếu thật không nghe thì làm sao biết được 
				tiếng chuông đã dứt. Còn nếu tánh nghe đã diệt, không còn thì 
				khi tiếng chuông đánh lại, làm sao còn nghe được? Nói cách khác 
				tiếng không, không phải tánh nghe không có. Hoặc tiếng có, không 
				phải tánh nghe mới sinh. 
				Do vậy nghe có tiếng, hay 
				nghe không có tiếng là do thanh trần khi có, khi không chớ không 
				phải tánh nghe vì thanh trần mà hóa có, hóa không. Vì vậy phải 
				biết rằng tánh nghe thì lúc nào cũng có cho dù có tiếng hay 
				không nên mới gọi là thường còn. Nói cách khác có tiếng thì nghe 
				động, không tiếng thì nghe tĩnh, chớ không phải không tiếng thì 
				tánh nghe không còn. Đây là đức tính “thường”, một trong ba tính 
				“thường, viên, thông” của nhĩ căn. Bằng chứng là trong khi ngủ, 
				con người cũng có thể nghe được tiếng mặc dù ý thức không khởi. 
				Trong chương kế tiếp, Đức Phật giới thiệu Đức Quán Thế Âm nhĩ 
				căn viên thông để khai thị rằng trong nhĩ căn của con người có 
				một tánh nghe, thường hằng, không sinh diệt cho dù có tiếng hay 
				không có tiếng. Nếu chúng sinh có thể đi vào được bản tánh nghe 
				của mình thì tất cả vọng tưởng, phân biệt, chấp trước dần dần sẽ 
				tan biến. Từ đó chơn tâm hiển bày, Phật tánh biểu lộ. 
				 
				Tiếng nghe là tướng của âm thanh tức là khi có tiếng là âm thanh 
				sinh và không còn tiếng là âm thanh diệt. Vì thế âm thanh là 
				tướng sinh diệt. Vì thế nếu chúng sinh dựa vào âm thanh sắc 
				tướng mà tu tức là tu theo bản tánh sinh diệt của các tướng thì 
				không bao giờ đạt được chơn như thanh tịnh bởi vì những gì có 
				tướng sinh diệt đều là huyễn ảo, giả dối, không thật. Do đó nếu 
				chúng sinh nương theo những huyễn ảo này mà tu thì họ sẽ sống 
				với cái vọng duyên, huyễn cảnh. Cho nên trong kinh Kim Cang, 
				Phật có dạy rằng: 
				 
				“Nếu thấy ta bằng sắc tướng 
				Nghe ta bằng âm thanh 
				Người này đi đường tà 
				Không thấy được Như Lai”. 
				 
				Nghĩa là nếu chúng sinh còn dựa theo âm thanh sắc tướng của Phật 
				mà tu tức là chưa phá được vọng chấp, vô minh phiền não thì 
				không bao giờ thấy được Phật tâm, Phật tánh tức là không thấy 
				được Như Lai. 
				 
				Mũi, lưỡi, thân và ý thì cũng vậy. Khi có mùi thơm thì mũi ngửi 
				biết mùi thơm, khi có mùi xú uế thì ngửi biết mùi hôi tanh. Còn 
				nếu không có mùi thì mũi trở về với tánh vô ký tức là tánh ngửi 
				vẫn còn, nhưng không có mùi vị để tiếp nhận. Khi có vị mặn, nhạt 
				thì lưỡi nếm được những vị này, nhưng nếu không có mùi vị gì thì 
				lưỡi trở lại với tánh vô ký của nó, chớ không phải là không còn 
				tánh nếm. Nói tóm lại ngoài những cái phân biệt thương ghét, vui 
				mừng, buồn giận, phải quấy, hơn thua, tốt xấu của thế gian hay 
				cái tánh thấy nghe, ngửi, nếm, xúc, biết thì vẫn còn một cái lúc 
				nào cũng thường còn trong tất cả mọi chúng sinh. Đó chính là 
				chơn tâm thường trú và thể tánh tịnh minh chớ không phải mất hết 
				như ông A Nan hoài nghi. 
				 
				Từ vô thỉ, con người có thói quen chạy theo âm thanh sắc tướng 
				tức là chạy theo cái sinh diệt mà bỏ mất tánh viên thường nên 
				xoay vần mãi trong ô nhiễm chấp trước mà tạo hạnh nghiệp để phải 
				chịu sinh tử khổ đau. Nay nếu biết thoát ly trần cảnh, bỏ cái 
				phân biệt, phát huy tánh chân thường yên lặng sáng suốt thì 
				những vọng tưởng, phân biệt mê chấp biến mất và tâm tánh thường 
				trụ sáng suốt hiện ra để làm nhân địa tu hành đi đến đạo quả 
				thường trụ của Phật. 
				
				
				 |  
				 |