|   TỨC LÀ VIÊN THÔNG VỀ 
				KIẾN ĐẠI 
				 
				Ngài Đại Thế Chí Pháp Vương Tử cùng với 52 vị Bồ-tát đồng tu 
				một pháp môn cùng đứng dậy cung kính chấp tay bạch Phật: 
				 
				- Tôi nhớ hằng sa kiếp trước có Đức Phật ra đời hiệu Vô Lượng 
				Quang. Thời đó có 12 Đức Phật ra đời trong một kiếp. Đức Phật 
				sau hết hiệu là Siêu Nhật Nguyệt Quang dạy cho tôi phép niệm 
				Phật tam muội: Rằng thập phương Như Lai thương nhớ chúng sinh 
				như mẹ nhớ con. Nếu con cũng đồng nhớ mẹ như mẹ nhớ con thì đời 
				đời mẹ con không xa cách. Tâm chúng sinh nhớ tưởng Phật thì tâm 
				ấy là Phật. Nhất định thấy Phật, không cần phương tiện nào khác. 
				Ví như người ướp hương thì toàn thân thể sẽ thành thơm, ấy gọi 
				là hương quang trang nghiêm. Chính tôi nhờ niệm Phật mà được vô 
				sanh nhẫn. Nay ở cõi Ta bà, tôi nguyện hướng dẫn người niệm Phật 
				để có được tịnh độ. Phật hỏi nhân duyên nào được viên thông, xin 
				thưa: Tôi thu nhiếp tất cả sáu căn không vọng niệm. Do chánh 
				niệm tương tục mà được Tam-ma-đề. Đối với tôi đấy là pháp môn 
				thù thắng nhất. 
				  
				
				Đại là vô ngại tức là 
				chẳng có gì lớn hơn, bao trùm tận hư không và gồm hết pháp giới. 
				Do đó kiến đại tác động vào con mắt tạo thành tánh thấy bao trùm 
				khắp cả. Nếu nói theo thứ tự thì kiến đại phải đứng trước thức 
				đại, nhưng ở đây lối trình bày của kinh là muốn giới thiệu kiến 
				đại của Ngài Đại Thế Chí và Nhĩ căn viên thông của Đức Quán Thế 
				Âm liên tục với nhau để hành giả có cơ hội dễ dàng đối chiếu, tu 
				học. Khi Ngài Đại Thế Chí làm một động tác như đưa tay lên hay 
				bước đi một bước thì thập phương thế giới đều rúng động vì thế 
				danh hiệu Đại Thế Chí Bồ Tát là do oai thế của Ngài mà kiến lập. 
				
				So với tất cả các vị 
				Bồ Tát thì Ngài là người có oai thần, trí lực cao nhất nên mới 
				gọi là “Chí”. Trong Tây phương Tam Thánh nghĩa là những bậc 
				thánh nhân xuất thế gian còn Khổng Tử hay Lão Tử là thánh nhân 
				của thế gian thì Ngài Đại Thế Chí tượng trưng cho trí tuệ viên 
				mãn rốt ráo, còn Quán Thế Âm Đại Sĩ tượng trưng cho đức đại từ 
				đại bi. Các họa sĩ người Trung Hoa vì giàu óc tưởng tượng đã vẽ 
				hình tướng hai Ngài Bồ Tát là hai mỹ nữ người Tàu, vóc dáng và 
				xiêm y chẳng khác Tây Thi, Trịnh Đán ngày xưa. 
				
				Đại Thế Chí và Quán 
				Thế Âm là hai vị Đẳng giác Bồ Tát tức là sự giác ngộ gần đồng 
				như Phật. Xiêm y của hai Ngài là y phục của người Tàu vào thời 
				phong kiến giống như cải lương hát bội. Không lẽ mấy ngàn năm Bồ 
				Tát hiện thân thành một người nữ chỉ có một lần và cả cái địa 
				cầu  rộng lớn bao la này tại sao Bồ Tát không ứng hiện tại 
				Thái Lan, Miến Điện, Tích Lan, Ấn Độ hay ngay cả Việt Nam mà duy 
				nhất ở Trung Hoa? Không lẽ những quốc gia này không có chúng 
				sinh cần độ hay sao? Ngày nay y phục này đã lỗi thời đâu còn ai 
				mặc như thế nữa. Tại sao không phải là chiếc áo bà ba đơn giản 
				hay chiếc áo dài thanh thoát của người Việt Nam? Không riêng gì 
				Phật giáo có sự lầm lẫn, cuồng tín tạo sự tin tưởng sai lầm cho 
				người Phật tử, đạo Thiên Chúa giáo cũng thế. 
				
				Vào thời đế quốc La Mã 
				thiết lập tòa thánh Vatican thì hình tướng của Chúa Giê-Su đã 
				thay đổi không biết bao nhiêu lần. Có họa sĩ vẽ Ngài có tóc rất 
				dài, mặt không có râu. Họa sĩ khác lại vẽ Ngài có tóc ngắn, mặt 
				có râu. Có người vẽ nét mặt thon dài, lại có người khác vẽ mặt 
				Ngài hơi đầy đặn. Vậy hình nào là hình thật? Chẳng có hình nào 
				là thật vì chẳng có ông bà họa sĩ nào thấy được mặt thật của 
				Chúa cả. Ở đây các vị Bồ Tát là những người khuất mặt siêu hình 
				thì làm sao phàm nhân thấy được mà vẽ hình này, tướng nọ. Trong 
				thế gian vũ trụ, hễ có sinh tất có diệt cho dù đó là thế giới 
				cực lạc của Phật A Di Đà. Do đó sau khi Phật A Di Đà nhập diệt, 
				Quán Thế Âm ngay lập tức thành Phật để tiếp nối và khi Quán Thế 
				Âm nhập diệt, Đại Thế Chí liền tiếp nối thành Phật. 
				
				 
				Đức Phật Thích Ca trong cõi Ta bà, Phật A Di Đà trong thế giới 
				Tây phương cực lạc, Phật Dược sư trong cõi Đông phương hay các 
				Chư Phật trong mười phương pháp giới đều có ba thân là: 
				
				 
				1) Pháp thân (Dharmakaya) là pháp giới thanh tịnh của các Đức 
				Như Lai lan tỏa trong khắp không gian làm sở y bình đẳng cho Báo 
				thân và Ứng thân. Pháp thân thì luôn thường trụ, bất sinh bất 
				diệt cũng được gọi là Pháp giới tánh, Như Lai Tạng…
				Phật lấy Pháp 
				Tánh Chân Như làm thân nên gọi là Pháp thân. Pháp thân là chỗ sở 
				y chứa tất cả công đức trong Pháp giới. Vì Pháp thân là thường 
				trụ nên Pháp thân ở khắp mọi nơi. Cho dù Phật nhập thế cứu độ 
				chúng sinh thì Pháp thân cũng không tăng hay Phật có xuất thế 
				thì nó cũng không giảm, lúc nào cũng vậy mà thôi. Cái Pháp thân 
				nầy Phật và chúng sinh đều có như nhau, nhưng ở Phật thì nó sáng 
				suốt chiếu soi rực rỡ còn ở chúng sinh thì nó bị vô minh che mờ 
				nên không hiển lộ. Pháp thân chính là cái mà con người sẽ trở về 
				sau khi diệt hết vô minh phiền não để phát huy trí tuệ sẳn có 
				của mình. Vậy Pháp thân chính là cội nguồn, là Bản Thể của tất 
				cả muôn sinh vạn vật. Đây chính là Bản Lai Diện Mục, là Phật 
				tánh có sẳn trong tất cả mọi người. 
				
				 
				2) Báo thân (Sambhogakaya) là thân tốt đẹp do công phu tu hành 
				trải qua bao nhiêu đời bao nhiêu kiếp mà có. Vì thế mà Đức Phật 
				Thích Ca có 32 tướng tốt và 80 vẻ đẹp rực rỡ là vậy. Báo thân 
				còn được gọi là “tự thọ dụng thân”. 
				Nếu chúng sinh đoạn trừ mọi vô minh phiền não thì tâm được hoàn 
				toàn thanh tịnh. Cái thanh tịnh an lạc tự tại nầy chỉ có người 
				đó biết và hưởng được còn người khác không hề cảm nhận hay san 
				sẻ được thì cái quả thanh tịnh an nhàn nầy là tự thọ dụng thân. 
				Cũng như uống một tách trà thơm ngon thì chỉ người uống trà mới 
				biết được hương vị thơm ngon như thế nào mà thôi. Do đó nếu 
				chúng ta bớt được một phần vô minh phiền não thì có được một 
				phần thanh tịnh tức là có được một phần tự thọ dụng thân. 
				Còn Báo thân của chúng sinh thì gọi là Karmakaya tức là thân nầy 
				là do quả nghiệp của tiền kiếp tạo thành. Muốn có thân thể khỏe 
				mạnh sống lâu thì đừng bao giờ sát sinh. Muốn có giọng nói thanh 
				tao trong trẻo thì đừng nên vọng ngữ. Muốn thân hình được đoan 
				trang, đẹp đẻ thì đừng nghĩ tới tà dâm. Muốn gia đình được ấm no 
				hạnh phúc thì đừng trộm cướp gian tham. 
				
				 
				3) Ứng thân hay biến hóa thân (Nirmanakaya) Chư Phật do trí 
				thành sở tác mà biến hóa ra thành vô lượng thân, ứng theo căn cơ 
				của chúng sinh mà hóa độ. Phật A Di Đà là ứng thân của Phật 
				trong cõi cực lạc và Đức Phật Thích Ca Mâu Ni là ứng thân của 
				Phật trong cõi Ta bà nầy. Vì Ứng thân là thân thị hiện nên phải 
				ảnh hưởng bởi luật vô thường là sinh, lão, bệnh, tử. Ứng thân 
				cũng được gọi là “tha thọ dụng thân”. 
				
				 
				Đối với Phật giáo thì báo thân hay tự thọ dụng thân có giá trị 
				tuyệt đối vì chỉ có người được thức tỉnh giác ngộ mới hưởng được 
				cái hương vị thanh tịnh an vui tự tại của giải thoát giác ngộ mà 
				không một người nào khác có thể biết được. Khi chư Phật hay 
				Bồ-tát thị hiện để hoằng dương đạo pháp thì chúng sinh có cơ hội 
				học hỏi, tu sửa và sống theo Chân lý để tự mình có được giải 
				thoát giác ngộ thì ứng thân để cứu độ chúng sinh ra khỏi bể khổ 
				sông mê gọi là tha thọ dụng thân. 
				
				 
				Tóm lại ba thân của Đức Phật là: Pháp thân là Thể, Báo thân là 
				Tướng và Ứng thân là Dụng. Tuy nói ba mà là một, tuy một mà ba 
				tức là một là tất cả và tất cả là một. 
				
				 
				Ngài Xuyên Lão Thiền Sư có viết rằng : 
				“Ứng Phật, Hóa Phật đều không thật 
				Bóng hình muôn thuở thảy là quyền 
				Cái gì có tướng đều hư vọng 
				Chân Phật không hình vốn tự nhiên”. 
				
				 
				Chữ “52” vị Bồ Tát đồng tu là ám chỉ cho 52 đẳng cấp từ Thập 
				Tín, Thập Trụ, Thập Hạnh, Thập Hồi Hướng, Thập Địa, Đẳng Giác và 
				sau cùng là Diệu Giác. Đây là tiến trình từ sơ phát tâm thẳng 
				đến khi thành Phật. Pháp Vương Tử là con của đấng Pháp Vương và 
				là những vị Bồ Tát ở địa vị Đẳng giác tức là gần ngang bằng với 
				Phật. Ngoài Đại Thế Chí, Văn Thù Sư Lợi cũng là Pháp Vương Tử. 
				
				 
				1) Thập Tín : Có khi nào chúng ta tự hỏi tại sao mình lại phải 
				học Phật? Tại sao phải tu thành Phật? Phật là chơn tâm, là bổn 
				tánh của con người cho nên thành Phật là thành tựu trí tuệ viên 
				mãn của tánh đức. Nhưng Phật chính là tự tâm, là bản lai diện 
				mục, vốn sẵn có đủ vạn đức, vạn năng nên tu Phật là hồi đầu thị 
				ngạn tức là quay thuyền trở lại bến xưa mà thấy và sống được với 
				Phật tâm, Phật tánh của chính mình. Muốn thành tựu những điều 
				này, chúng sinh phải có lòng tin để đánh tan tà kiến mà tiến 
				thẳng vào Bồ Tát đạo. Con người sau khi tu viên mãn địa vị Thập 
				Tín sẽ nhập vào Sơ Trụ tức là bước đầu của Đại Thừa. 
				
				 
				2) Thập Trụ: là luôn trụ trong tam muội nghĩa là trụ trong thanh 
				tịnh, sống trong chơn tâm thường trú và thể tánh tịnh minh, 
				chẳng còn bị thoái chuyển. 
				
				 
				3) Thập Hạnh: là thực hành pháp môn niệm Phật. Niệm Phật cũng ví 
				như nấu nước sôi, cho dù là lửa lớn tức là công phu nhiều nhưng 
				không liên tục thì nước không sôi. Ngược lại người niệm Phật 
				phải kiên trì cũng như lửa tuy yếu, nhưng tiếp tục nấu hoài thì 
				nước sẽ sôi. 
				
				 
				4) Thập Hồi Hướng: Xoay niệm hướng về tâm Phật và hồi hướng tất 
				cả công đức mình đã tích lũy về Phật tâm và cho tất cả chúng 
				sinh tức là phá Ngã chấp. 
				
				 
				5) Thập Địa: Hồi hướng viên mãn liền nhập Phật địa. Quả vị này 
				rất gần với Phật. 
				
				 
				Sau đó đi qua Đẳng giác rồi sau cùng tiến qua Diệu giác tức là 
				thành Phật. 
				
				 
				Trong vô lượng kiếp trước, có một vị Phật xuất thế tên là Vô 
				Lượng Quang và sau đó có 12 vị Phật nối tiếp nhau xuất hiện 
				trong một kiếp, dạy cho Ngài Đại Thế Chí phép Niệm Phật tam 
				muội. 
				
				 
				1) Vô Lượng Quang Phật: 
				còn có tên Vô Lượng Thọ Phật tức là Phật A Di Đà. Vô Lượng Quang 
				là chỉ cho ánh sáng chiếu sáng rộng rãi khắp không gian vô cùng 
				vô tận. Nói cách khác ánh sáng chiếu tới đâu là không gian tới 
				đó hay không gian tới đâu thì ánh sáng tới đó. Do đó Vô Lượng 
				Quang là chỉ cho về mặt không gian. Còn Vô Lượng Thọ là biểu 
				tượng cho thời gian. Vô Lượng Thọ là sống lâu vô lượng nghĩa là 
				suốt trong chiều dài của quá khứ và mãi mãi cho vị lai mà Phật A 
				Di Đà vẫn còn sống. Nói cách khác có thời gian là có Phật A Di 
				Đà. Vậy Phật A Di Đà là Phật biểu tượng cho cả không gian và 
				thời gian. 
				
				Nhưng trong thế gian 
				cái gì là biểu tượng cho không gian và thời gian? Đó chính là vũ 
				trụ. Thế thì Phật A Di Đà là biểu tượng của vũ trụ. Nói cách 
				khác Phật A Di Đà là ám chỉ cho không gian thanh tịnh trùm khắp 
				mười phương và thời gian thanh tịnh suốt ba đời. Do đó Phật A Di 
				Đà là tự tánh thanh tịnh bản nhiên trùm khắp không gian và cái 
				tánh thanh tịnh bản nhiên này cũng suốt cả chiều dài của quá 
				khứ, hiện tại và vị lai. Vậy chúng sinh hiện giờ là đang ở trong 
				pháp thân thanh tịnh của Phật A Di Đà bởi vì con người đang ở 
				trong không gian và thời gian. 
				
				 
				2) Vô Biên Quang Phật: 
				là Phật tiêu biểu cho giải thoát bình đẳng nhất như. 
				
				 
				3) Vô Ngại Quang Phật: 
				là tiêu biểu cho “Thể tịch, dụng diệu”. Thể tịch là thể tánh 
				thanh tịch, tịch tĩnh. Còn dụng diệu là khởi tác dụng nhiệm mầu 
				tự tại. Nói cách khác thể tịch là chơn không còn dụng diệu là 
				diệu hữu tức là bất biến tùy duyên. 
				
				 
				4) Vô Đẳng Quang Phật: 
				là do tâm đại bi kiến lập để cứu giúp chúng sinh diệt hết nỗi 
				khổ không ai có thể sánh bằng. 
				
				 
				5) Trí Huệ Quang Phật: 
				là trừ bụi nhơ vô minh để có lợi ích chân thật vì chỉ có trí tuệ 
				chân chánh mới phá được vô minh tăm tối. 
				
				 
				6) Thường Chiếu Quang Phật: Chư Phật phóng quang, chiếu khắp thế 
				giới. Tịch là tâm thanh tịnh, chiếu là tâm bình đẳng. 
				
				 
				7) Thanh Tịnh Quang Phật: là giữ tam nghiệp thân, khẩu, ý thật 
				thanh tịnh. 
				
				 
				8) Hoan Hỷ Quang Phật: là làm cho tất cả chúng sinh an lạc. 
				
				 
				9) Giải thoát Quang Phật: là muôn vàn gút mắc trong tâm đều tháo 
				gở cả. Muốn có giải thoát giác ngộ thì người tu Tiểu thừa phải 
				phá tan Kiến hoặc, Tư Hoặc, Vi tế hoặc và sau đó phá thêm Trần 
				Sa Hoặc và Vô Minh Hoặc thì viên thành Đại Thừa Phật đạo. 
				
				 
				10) An Ổn Quang Phật: Có sinh diệt là không được an ổn cho nên 
				chúng sinh nên quay về với chơn tâm, với bổn tánh bất sinh bất 
				diệt của mình thì cuộc sống sẽ có an vui tự tại. 
				
				 
				11) Bất Tư Nghì Quang Phật: Công đức và trí tuệ Phật là bất khả 
				tư nghì, không thể nghĩ bàn. 
				
				 
				12) Siêu Nhật Nguyệt Quang Phật: là quang minh của Phật vượt xa 
				mặt trời, mặt trăng. 
				
				 
				Đây là những vị cổ Phật và Đức Phật A Di Đà thành Phật mới vừa 
				mười kiếp. Chính Siêu Nhật Nguyệt Quang Như Lai đã dạy Ngài Đại 
				Thế Chí phép niệm Phật tam muội. Vậy có bao nhiêu phương pháp 
				niệm Phật và thế nào là niệm Phật tam muội? 
				Niệm Phật tức là niệm tâm và có bốn phương pháp: 
				
				 
				1) Trì Danh Niệm Phật: là thường xuyên chuyên niệm sáu tiếng 
				“Nam Mô A Di Đà Phật”. Người niệm Phật nên nhất tâm chấp trì 
				danh hiệu, chẳng hoài nghi, chẳng xen tạp và không gián đoạn. 
				Mỗi ngày từ khi mới thức dậy cho đến lúc đi ngủ, hành giả phải 
				nhớ niệm Phật luôn, không cho xen hở, gián đoạn. Khi đi, đứng, 
				nằm, ngồi ngay cả khi ăn và trước khi đi ngủ hành giả đừng bao 
				giờ quên niệm Phật. Ngoài ra, muốn cho có hiệu quả hơn, hành giả 
				cần phải theo phương pháp “kinh hành niệm Phật” hay “tọa thiền 
				niệm Phật”. Mỗi khi niệm xong, hành giả đều hồi hướng cầu sinh 
				về tịnh độ. Pháp môn niệm Phật là một pháp môn giúp chúng sinh 
				phá trừ vọng tưởng, mê lầm, chấp trước. Pháp môn này không đòi 
				hỏi hành giả hiểu biết nhiều về Phật pháp nên người già, người 
				trẻ, thượng căn, trung căn, hạ căn đều có thể niệm Phật, người 
				khỏe mạnh cũng như kẻ đau yếu đều có thể niệm Phật. 
				
				 
				2) Quán Tượng Niệm Phật: là thỉnh một bức tượng A Di Đà, rồi vừa 
				niệm Phật vừa quán tưởng tướng hảo trang nghiêm của Phật A Di Đà 
				đặc biệt là ánh hào quang, tướng bạch hào giữa hai mắt. Hành giả 
				quán tưởng cho đến khi dù không có tượng, lúc mở mắt nhắm mắt 
				đều thấy hình tượng Phật hiện rõ nơi trước mặt. Phương pháp này 
				tương đối hơi khó vì cần phải có tinh lực mạnh, ký ức sâu và 
				phương tiện khéo. Nếu hành giả không khéo dùng phương tiện thay 
				đổi, bị hư hỏa xông lên mang chứng bệnh nhức đầu khó trị. Tuy 
				hơi khó, nhưng phương pháp này giúp người niệm Phật dễ đắc Niệm 
				Phật tam muội và sau cùng đạt tới Nhất tâm bất loạn. 
				
				 
				3) Quán Tưởng Niệm Phật: Phương pháp này chỉ đơn thuần quán 
				tưởng, không cần phải có tượng Phật trước mặt. Trong mười sáu 
				phép quán, mười hai phép quán đầu đều là quán tưởng, phép quán 
				thứ mười ba là quán tượng và phép quán thứ mười sáu là trì danh 
				niệm Phật. Vậy chúng sinh quán tưởng cái gì? 
				
				 
				Hành giả dựa theo kinh Quán Vô Lượng Thọ để quán tưởng y báo, 
				chánh báo nơi cõi Cực lạc. Kinh dạy có mười sáu phép quán, nếu 
				hành giả quán thuần thục thì lúc mở mắt hay nhắm mắt đều thấy 
				cảnh Cực lạc hiện tiền, tâm thần dạo chơi nơi cõi tịnh và khi 
				chết chắc chắn sẽ được vãng sinh. Công đức của pháp này lớn lao 
				không thể nghĩ bàn, nhưng vì cảnh quán quá vi tế nhiệm mầu sâu 
				thẳm nên ít người hành trì được thành tựu. Trong Khế Kinh có 
				dạy: ”Nếu người quán tưởng Pháp thân Chân như của Đức Phật A Di 
				Đà, thường tinh tấn tu hành, cuối cùng được vãng sinh, đạt được 
				chánh định (tam muội). 
				Quán rằng : 
				
				 
				A Di Đà thân kim sắc  
				Tướng hảo quang minh vô đẳng luân 
				Bạch hào uyển chuyển ngũ Tu Di 
				Cám mục trừng thanh tứ đại hải 
				Quang trung hóa Phật vô số ức 
				Hóa Bồ Tát chúng diệc vô biên 
				Tứ thập bát nguyện độ chúng sinh 
				Cửu phẩm hàm linh đăng bỉ ngạn. 
				
				 
				Chúng sinh quán tưởng bài kệ tán thán Phật này cũng có thể đắc 
				Niệm Phật tam muội. 
				
				 
				4) Thực Tướng Niệm Phật: 
				là niệm Đức Phật nơi tự tánh, là niệm tánh Phật bản lai của 
				chính mình. Đây là quán pháp thân thật tướng của Phật, kết quả 
				sẽ chứng được Chân Như tam muội. Phương pháp này là thuộc về 
				Thiền, nhưng cảnh giới do tâm Thiền hiển lộ lại là Tịnh độ nên 
				cũng nhiếp về Tịnh độ. Pháp môn này không gồm thâu bậc trung, hạ 
				căn và nếu không phải là bậc thượng thượng căn tất không thể ngộ 
				nhập. Vì thế pháp môn này ít được đề xướng trong Tịnh độ tông. 
				Nói cách khác thực tướng niệm Phật tức niệm mà không niệm, không 
				niệm mà niệm thì thời điểm đó hành giả đi vào tham thiền. Cho 
				nên người hiểu rõ niệm Phật chân chính không phản đối tham thiền 
				và ngược lại người hiểu rõ thiền thì không chống đối người niệm 
				Phật. 
				
				 
				Vì Thật Tướng, Quán Tưởng và Quán Tượng niệm Phật tương đối hơi 
				khó cho người niệm Phật, nên Ấn Quang Đại Sư dạy rằng : 
				
				 
				“Chỉ duy trì danh mà chứng thật tướng, 
				Không cần quán tưởng cũng thấy Tây phương”. 
				
				 
				Pháp môn Trì Danh Niệm Phật là phương pháp niệm Phật phổ thông 
				nhất hiện nay, nhưng cũng được áp dụng với nhiều cách thức khác 
				nhau tùy theo căn tánh của mỗi người. 
				
				 
				1) Phản Văn Trì Danh: Đây là phương pháp mà miệng vừa niệm Phật, 
				tai vừa nghe tiếng niệm vào trong và kiểm soát từng chữ từng câu 
				thật rành rẽ rõ ràng. Nghe có hai cách, hoặc dùng lỗ tai nghe, 
				hoặc dùng tâm để nghe. Tuy nói là nghe vào trong, nhưng không 
				trụ nơi đâu rồi lần lần quên hết trong ngoài, cho đến quên cả 
				thân tâm cảnh giới, thời gian không gian, sau cùng chỉ còn một 
				câu Phật hiệu. Đây là phương cách dễ gạn trừ vọng tưởng, mau đạt 
				được nhất tâm. 
				
				 
				2) Sổ Châu Trì Danh: Phương pháp này thì miệng vừa niệm Phật mà 
				tay vừa lần chuỗi. Lúc đầu ý niệm còn ràng buộc nơi tràng hạt, 
				nhưng sau lần buông bỏ đi đến cảnh nhất tâm. Tu theo lối này 
				khiến cho niệm lực thêm mạnh mẽ, phát triển định tâm. Niệm như 
				thế lâu ngày được thuần thục, không niệm vẫn tự niệm. 
				
				 
				3) Tùy Tức Trì Danh: Là niệm Phật thầm, nương theo hơi thở. Mỗi 
				hơi thở ra vào đều một câu Phật hiệu. Mạng sống con người nương 
				theo từng hơi thở nên biết nương theo đây mà niệm, lúc nào cũng 
				có Phật trong tâm. 
				
				 
				4) Truy Đảnh Trì Danh: là cách niệm Phật nhỏ nhỏ tiếng, mỗi chữ 
				mỗi câu đều kế tiếp nhau liên tỏa chặt chẽ thành hình thế chữ 
				sau đuổi theo chữ trước, câu nọ gối đầu câu kia. Nhờ sự kín đáo 
				bền chặt, trung gian không xen hở nên tạp niệm không có chỗ len 
				vào làm cho tâm miệng dũng tiến, oai lực của chánh niệm bao trùm 
				tất cả khiến cho nghiệp tưởng vô minh tạm thời chìm lắng và ánh 
				mầu Tam Muội bộc phát chiếu xa. Đây là phương cách tốt nhất cho 
				những ngời tu tịnh nghiệp trong lúc tình tưởng mênh mang rối 
				loạn. 
				
				 
				5) Giác Chiếu Trì Danh: là một mặt niệm Phật, một mặt hồi quang 
				soi trở lại chân tánh của mình. Do niệm như thế, hành giả sẽ đi 
				vào cảnh giới hư linh siêu tuyệt, chỉ còn cảm giác thân tâm của 
				mình hòa đồng vào chơn tâm của Phật, sáng tròn rực rỡ, đầy rộng 
				mênh mang. Niệm theo đây thì tuy báo thân chưa mãn đã chứng tịch 
				quang, Phật hiệu vừa tuyên liền vào Tam Muội. Đây là lối tu dành 
				cho bậc thượng thượng căn mà thôi. 
				
				 
				6) Lễ Bái Trì Danh: Phương thức này là vừa lạy vừa niệm Phật. 
				Hành giả niệm một câu, lạy một lạy cho thật nhẹ nhàng chậm rãi, 
				lễ niệm song hành, thân miệng hợp nhất. Nếu thêm vào đó ý thành 
				khẩn tha thiết thì thành ra ba nghiệp đều tập trung. Đây là 
				phương pháp phá trừ hôn trầm, công đức và hiệu lực rất to lớn vì 
				hành giả phải vận dụng cả ba nghiệp để trì niệm. 
				
				 
				7) Ký thập Trì Danh: là cách niệm ký số nghĩa là cứ lấy mỗi mười 
				câu làm một đơn vị. Sau khi niệm đủ mười câu thì lần quan một 
				hạt chuỗi. Niệm theo lối này thì tâm đã niệm Phật lại còn phải 
				ghi nhớ số cho nên không chuyên bắt buộc phải chuyên bởi vì nếu 
				không chuyên thì số mục liền sai lạc. Cách thức này rất công 
				dụng cho người nhiều nhiều tạp niệm. 
				
				 
				8) Liên Hoa Trì Danh: Lấy bốn sắc hoa sen xanh, vàng, đỏ, trắng 
				vừa niệm vừa tưởng, luân lưu chuyển tiếp. Khi hành giả niệm câu 
				Phật hiệu thứ nhất thì tưởng trước mặt mình hiện ra một dóa sen 
				xanh to lớn phóng ánh sáng xanh. Câu thứ hai, tưởng hoa sen vàng 
				phóng ánh sáng vàng. Cho đến câu thứ ba, thứ tư là hoa sen đỏ, 
				trắng, màu nào phóng ánh sáng ấy. Kế tiếp tục tưởng lại hoa sen 
				màu xanh, cứ như thế luân lưu mãi. 
				
				 
				9) Quang Trung Trì Danh: Đây là phương pháp vừa niệm Phật, vừa 
				tưởng mình đang ngồi giữa vừng ánh sáng trong suốt to rộng. Khi 
				tâm đã an định trong vùng quang minh ấy, hành giả cảm thấy thần 
				trí sáng suốt mát mẻ, không còn những tạp tưởng và các tướng uế 
				ác cũng tiêu tan. 
				
				 
				10) Quán Phật Trì Danh: Đây là phương thức lấy trì danh làm 
				chánh, quán Phật làm phụ. Hành giả mỗi ngày sau khi niệm Phật 
				nên để riêng một thời tịnh tâm quán tưởng sắc tướng quang minh 
				của Phật A Di Đà. Tưởng Đức A Di Đà thân cao một trượng sáu, sắc 
				vàng ròng, đứng bên bờ thất bảo, lông trắng giữa đôi mày. Tướng 
				bạch hào rỗng không trong suốt như bạch ngọc. 
				
				 
				Phương pháp niệm Phật thì nhiều không kể hết được, nhưng mười 
				lối trì danh ở trên là để đối trị với tâm bệnh của người niệm 
				Phật. Quý Phật tử có thể thử qua để thí nghiệm sự tác dụng của 
				mỗi phương pháp và sau cùng đem ra áp dụng một lối niệm nào mà 
				thích hợp với mình nhất. 
				
				 
				Vì sở thích và túc căn của chúng sinh có sự sai khác nên con 
				người mới phân chia ra thành Thiền, Giáo, Mật, Tịnh. Nhưng Phật 
				pháp không hề có sai khác, cứu cánh giải thoát giác ngộ cũng 
				không sai khác. Phương tiện tuy khác nhau, nhưng sau cùng cũng 
				quy về một cứu cánh duy nhất là giải thoát giác ngộ cũng như 
				trăm sông cùng đổ về biển lớn. 
				
				 
				Trong phần này, tuy là nói về niệm Phật, nhưng hành giả cũng có 
				thể cộng thêm thiền, giáo, mật vào để tăng thêm công lực mà mau 
				có nhất tâm. 
				
				 
				1) Thiền Tịnh song tu: có những hành giả lấy niệm Phật làm 
				chánh, tham thiền làm phụ, nhưng lại lấy sự vãng sinh Tịnh độ 
				làm yếu điểm chung cuộc còn việc thấy tánh ngộ đạo chỉ thuộc 
				phần tùy duyên. 
				
				 
				2) Giáo Tịnh song tu: Hành giả lấy niệm Phật làm chánh, tụng 
				kinh làm phụ. Về phần tụng kinh, có người thích tụng Kinh Kim 
				Cương hay Di Đà, Hoa Nghiêm, Pháp Hoa hay phẩm Phổ Môn và Phổ 
				Hiền Hạnh. Trong Pháp Bảo Đàn kinh có câu chuyện nói về một vị 
				tăng tên Pháp Đạt đến tham vấn Lục Tổ với tâm niệm tự phụ vì đã 
				tụng 3.000 lần bộ kinh Pháp Hoa. Khi Lục Tổ hỏi về nghĩa kinh 
				thì Pháp Đạt thú nhận là không hiểu ý cùng căn bổn của kinh. Lục 
				Tổ sau khi giảng về “tông” của kinh thì có nói thêm rằng: 
				
				 
				- Người thế gian, ngoài mê thì dính tướng, trong mê thì dính 
				Không. Nếu đối với tướng mà lìa tướng, đối với Không mà lìa 
				Không thì trong ngoài chẳng mê. Nếu hiểu rõ pháp này, một niệm 
				tâm mở sáng, ấy là mở “Tri kiến Phật”. 
				
				 
				Sau khi tỏ ngộ, Pháp Đạt có hỏi : 
				
				 
				- Nếu vậy, hiểu được nghĩa, thì chẳng cần tụng kinh? 
				Lục Tổ đáp : 
				- Kinh có lỗi gì, há có ngăn trở sự tụng niệm của ngươi đâu. 
				Miệng tụng mà tâm làm theo nghĩa kinh, tức là mình chuyển kinh. 
				Ngược lại, miệng tụng mà tâm chẳng làm theo kinh, tức là mình bị 
				kinh chuyển. 
				
				 
				3) Mật Tịnh song tu: Hành giả lấy niệm Phật làm chánh, trì chú 
				làm phụ. Trong việc trì chú, mỗi người có thể chọn những chú 
				như: Đại Bi, Chuẩn Đề, Vãng sanh, Công Đức Bảo Sơn, Văn Thù Ngũ 
				Thanh thần chú, Lục Tự Đại Minh chân ngôn hay Thủ Lăng Nghiêm 
				thần chú. 
				
				 
				4) Thuần Tịnh: Hành giả chỉ chuyên niệm Phật, không xen tạp môn 
				nào khác. 
				
				 
				Tuy sở thích và túc căn của mỗi người có sai khác và mặc dù có 
				tu theo những pháp môn khác, hành giả Tịnh độ cũng cần lưu ý đến 
				hai phần chánh và trợ cho được phân minh. Dĩ nhiên phần chánh 
				luôn luôn nhiều hơn phần trợ. Có như thế thì đường tu mới không 
				mất mục tiêu và sự vãng sinh cũng không bị chướng ngại. 
				
				 
				Tại sao dễ niệm Phật mà kết quả khó thành? 
				
				 
				Người niệm Phật tuy miệng niệm nhưng tâm lại lạc vào trạng thái 
				mê mờ, nặng nề muốn ngủ, nhà Phật gọi là vọng chướng hôn trầm. 
				Hoặc miệng thì niệm Phật, nhưng tâm lại vẩn vơ nghĩ chuyện đâu 
				đâu tức là vọng duyên tán loạn khiến cho hành giả không thể vào 
				chánh định. Đôi khi có những trường hợp hành giả lúc đang hành 
				trì, vọng tưởng chìm lặng, câu niệm Phật vẫn nghe đều đều, tâm 
				tư êm dịu quên cả hiện tượng ngoại giới như nóng bức hay lạnh 
				giá… 
				Trạng thái này kéo dài 
				từ nửa tiếng đến một giờ đồng hồ, có khi ra mồ hôi ướt cả áo mà 
				không hay đến khi chợt tỉnh mới cảm biết trong người nóng bức 
				hay lạnh buốc khó chịu. Đây là trạng thái hôn trầm nhưng thuộc 
				về phần vi tế nhẹ nhàng chớ không phải tâm mình được an định. 
				
				 
				Vọng tưởng cũng có hai phần là thô và tế. Vọng tưởng thô thì dễ 
				biết vì hành tướng nó rất rõ ràng. Khi niệm Phật dụng công chặt 
				chẻ kín đáo thì vọng tưởng thô cố nhiên phải lặng chìm, nhưng 
				rất khó nhận được tướng qua lại của phần vọng tưởng vi tế. Chỉ 
				có những người niệm Phật lâu, đến trình độ nước trong tâm lặng 
				thì mới thấy biết được vọng tưởng vi tế. Ngài Bạch Thánh pháp 
				sư, một buổi sáng từ nơi giường bước lại ghế ngồi, trong khoảng 
				chừng ba giây đồng hồ đã phát giác trong tâm mình nổi lên đến 
				vài mươi vọng niệm khác nhau. Đủ biết vọng tưởng vi tế nguy 
				hiểm, tác hại biết bao. 
				
				 
				Ngài Quang Huệ và Giới Diễn là hai vị thiền sư đều ngộ đạo. Một 
				hôm trong khi cùng ngồi thiền, nơi tiềm thức của Ngài Giới Diễn 
				chợt nổi lên một niệm sắc ái. Ngài liền diệt trừ, nhưng bên kia 
				thiền sư Quang Huệ đã hay biết. Sau khi xuất định, Ngài Quang 
				Huệ làm bài kệ có ý trêu cợt Ngài Giới Diễn. Thiền sư Giới Diễn 
				buồn thẹn, liền thâu thần nhập diệt. Ngài Quang Huệ hối hận, cho 
				gọi đệ tử đến phó chúc rằng: “Bạn ta trong khi thiền định có một 
				niệm sắc ái, sau tất lụy về sắc, vì phiền ta mà thị tịch, sau sẽ 
				phá hoại Tam Bảo. Lỗi ấy một phần do ở nơi ta, nếu ta không theo 
				hóa độ, tất sẽ mang lấy hậu quả”. Dặn dò xong, Ngài cũng viên 
				tịch theo luôn. 
				
				Sau Quang Huệ chuyển 
				thân làm thiền sư Phật Ấn còn Giới Diễn chuyển kiếp làm Tô Đông 
				Pha. Vì Đông Pha kiếp trước có tu nên thi đổ Tiến Sĩ vào đời vua 
				Tống Nhân Tông (1056 Tây lịch) làm quan đến chức Hàn Lâm Học sĩ 
				kiêm Binh Bộ Thượng Thơ tương đương với chức Bộ Trưởng Giáo Dục 
				và Bộ Trưởng Quốc Phòng thời nay. Ông thông minh trí tuệ mà cũng 
				đa tài đa tình, có đến bảy người vợ và thường đem sự thông minh 
				bác lãm của mình mà vấn nạn các vị thiền sư. Về sau Ngài Phật Ấn 
				chiết phục, ông mới quay về đường lối tu Phật. Bất cứ đi đâu, 
				ông cũng mang theo bên mình một bức tượng tranh của Phật A Di Đà 
				và bảo cùng với mọi người rằng: “Đây là quyển sổ Niệm Phật của 
				tôi”. Đến khi tuổi già, nằm trên giường bệnh, trong giờ phút tối 
				hậu, có Thiện Tri Thức nhắc nhở niệm Phật, ông phều phào trả lời 
				rằng : 
				
				 
				- Tôi vẫn biết niệm Phật có công đức không thể nghĩ bàn. Nhưng 
				khổ nỗi, hiện giờ thân thể tôi đau nhức quá, không sao niệm Phật 
				được. 
				
				 
				Nói xong đoạn qua đời. Tiếc thay cho Ngài Giới Diễn, một cao 
				tăng ngộ đạo khi xưa mà kiếp này như thế! Chẳng biết kiếp sau sẽ 
				lạc về đâu trong sáu nẻo luân hồi! 
				
				 
				Vì thế vọng tưởng vi tế rất nguy hiểm ngay cả những bậc chân tu 
				còn phải e dè co nên cổ nhân cũng có câu : 
				
				 
				“Công phu không thiếu cũng không dư 
				Muôn kiếp tham si chữa dễ trừ”. 
				
				 
				Khi loạn tưởng nhiều, hành giả nên ngồi yên nhiếp tâm niệm Phật. 
				Lúc hôn trầm đến thì nên đứng lên vừa niệm vừa kinh hành. Cứ 
				dùng hai oai nghi này thay đổi mãi, lâu ngày chướng duyên ấy sẽ 
				tiêu trừ. Thêm nữa, hành giả lắng tai nghe rành rõ từ tiếng từ 
				câu niệm Phật thì tâm không tán loạn. 
				
				 
				Thế nào là Niệm Phật tam muội? 
				
				 
				Tam muội có nghĩa là chánh định hay chánh thọ. Vì thế niệm Phật 
				khi có được chánh định thì gọi là niệm Phật tam muội. Chánh thọ 
				nghĩa là khi tâm đã thanh tịnh thì chánh thọ sẽ thành bất thọ 
				tức là không còn thọ cái gì cả. Hằng ngày, con người thọ biết 
				bao thứ trên cõi đời, nào là thọ vui, thọ buồn, thọ khổ, thọ 
				mừng, thọ ghét, thọ yêu, thọ giận… Càng thọ thì chúng sinh càng 
				khổ, tâm càng bất tịnh. Vậy thọ chính là biểu tượng của vô minh, 
				là nhân của đau khổ cho nên nếu không thọ tức thì vô minh mất, 
				khổ đau tan biến. Không thọ thì không đặt niềm hy vọng mà không 
				hy vọng thì không sợ bị thất vọng nên không còn khổ. Khi những 
				ma chướng như tham-sân-si dấy khởi làm cho con người sống trong 
				chập chồng đau khổ, bây giờ biết quay về niệm Phật. Niệm cho đến 
				khi vọng tưởng tan biến, tâm không còn giận, còn hờn, còn tham 
				đắm si mê thì con người đã dùng lửa tam muội đốt sạch vô phiền 
				não rồi. Vậy lửa tam muội không gì khác hơn là năng lực niệm 
				Phật hay tham thiền để xoay tâm trở về với tự tánh bản nhiên 
				thanh tịnh mà có an lạc Niết bàn. 
				
				 
				Người niệm Phật khi đến chỗ tuyệt đỉnh tận cùng khiến tâm rất 
				định thì cái định thể này là Niệm Phật tam muội. Hành giả sẽ cảm 
				nhận cảnh hư linh sáng lặng, vọng giác tiêu tan và tâm chỉ còn 
				trụ nơi tướng hảo hoặc hồng danh của Phật. Tuy nói là trụ, nhưng 
				thật ra là vô trụ vì âm thanh sắc tướng đưởng thể như huyễn tức 
				là không. Khi chúng sinh chuyên nhất niệm Phật, luôn giữ chánh 
				niệm, quên hết thân tâm ngoại cảnh, tuyệt cả không gian thời 
				gian đến khi sức cực công thuần thì nơi đương niệm trần vọng 
				bỗng thoạt tiêu tan, tâm thể bừng sáng, chứng vào cảnh giới vô 
				niệm vô bất niệm tức là niệm mà không niệm, không niệm mà niệm 
				nghĩa là không thấy biết mới là sự thấy biết chân thật còn có 
				thấy biết tức lạc theo ngoại trần. Đến đây thì tâm thể hoàn toàn 
				sáng suốt rỗng rang, tịch mà chiếu, chiếu mà tịch, đều còn đều 
				mất, tuyệt đãi viên dung. 
				
				 
				Kinh dạy Phật nhớ chúng sinh như mẹ nhớ con và nếu con cũng nhớ 
				mẹ thì đời đời không ngăn cách nghĩa là tuy Phật vì lòng từ bi 
				thương xót chúng sinh còn lặn hụp trong sông mê bể khổ, muốn đem 
				giáo pháp nhiệm mầu để cứu vớt họ đến bờ giải thoát, nhưng nếu 
				chúng sinh không hồi đầu thị ngạn quay về nương tựa nơi Phật 
				pháp thì Phật cũng chẳng độ được tức là mẹ con vẫn xa cách nghìn 
				trùng. Trong tất cả mọi chúng sinh, ai ai cũng đều có Phật tâm, 
				Phật tánh như nhau, nhưng vì sống trong điên đảo, chạy theo vô 
				minh phiền não nên mới xa dần chơn tánh của mình. Do đó nếu bây 
				giờ biết thức tỉnh quay thuyền trở lại bến xưa, nương tựa nơi 
				chánh pháp thì Phật tánh hiện tiền tức là Phật và chúng sinh là 
				một nghĩa là mẹ con tương ngộ tương phùng. 
				
				 
				Kinh lại dạy tiếp rằng: “Nếu tâm chúng sinh nhớ Phật thì tâm ấy 
				là tâm Phật, nhất định sẽ thấy Phật”. Nhưng thấy Phật bằng cách 
				nào? Thấy Phật bằng tướng hay bằng định? Thấy tướng là còn thấy 
				sinh diệt, còn thấy trong định là tâm chẳng còn tán loạn. Ngày 
				nay người niệm Phật thì nhiều, nhưng thành công thì ít, nguyên 
				nhân là do miệng niệm Phật nhưng tâm không niệm, niệm thứ nhất 
				vừa mới tinh thuần thì niệm thứ hai bèn xen tạp nên không có 
				định, vọng tưởng vẫn còn dấy khởi nên không có kết quả. 
				
				 
				Con người vì chẳng thể đoạn tham cầu ái dục, các thứ hưởng thụ 
				trong cuộc sống nên lòng lưu luyến khó buông xả. Sợi dây ràng 
				buộc càng to, càng rắn chắc thì càng khó đứt. Nó chính là căn 
				nguyên cội rễ phát sinh ra Kiến hoặc, Tư hoặc tạo ra biết bao 
				phiền não để cột chặt con người vào những hệ lụy của phiền não 
				khổ đau, vào vòng sinh tử trầm luân. Vì thế trong pháp “Như 
				huyễn Tam-ma-đề” giúp chúng sinh nhận thấu vạn pháp giai không, 
				như huyển, không bền không chắc nên dễ tháo gút mở dây. 
				
				 
				Tất cả phương cách niệm Phật trên thực tế chỉ là “Sự Niệm” vì 
				tâm còn dựa theo sắc tướng âm thanh tức là còn lấy thức tâm sinh 
				diệt làm nhân địa tu hành thì không bao giờ thành giác. Nhưng sự 
				diệu dụng nhiệm mầu của Phật pháp là ban đầu hành giả tuy có 
				nương theo âm thanh sắc tướng, nhưng dần theo thời gian âm thanh 
				sắc tướng cũng tiêu tan, biến mất và sau cùng đạt được mục đích 
				tối hậu là niệm Phật đến chỗ vô niệm thì thấy được Pháp thân 
				thanh tịnh của mình. 
				
				Nhưng thế nào là vô 
				niệm? Niệm là ý niệm, là ý nghĩ. Vô là không. Dựa theo lời giải 
				thích của Lục Tổ Huệ Năng thì Vô là không vọng niệm, còn Niệm là 
				thường niệm chơn như bổn tánh. Nói thế “chơn như bổn tánh là thể 
				và niệm là dụng”. Do đó nếu chơn như tự tánh không khởi niệm thì 
				sáu căn cho dù có thấy nghe cũng không vì thế mà đắm nhiễm với 
				ngoại trần. Được như thế là vô niệm. Nói cách khác niệm Phật đến 
				một công phu nhất định, lúc ấy vọng thức không còn, tâm hằng 
				thanh tịnh thì sẽ nhập vào “Lý Niệm” tức là có thể thấy được 
				Pháp thân thường trụ của mình, thấy Phật nơi tự tánh, Phật tâm 
				bình đẳng thanh tịnh. 
				
				 
				Vì thế Lục Tổ Huệ Năng cũng dạy rằng : ”Kẻ mê thì niệm Phật hy 
				vọng vãng sinh Tây phương, người ngộ cũng niệm Phật nhưng chỉ 
				cần thanh tịnh tâm mình”. Tại sao? Người mê thì thấy mình và 
				Phật là hai thực thể khác nhau, cách biệt ngàn trùng nên mới cầu 
				đến phương Tây để gặp Phật, ngược lại kẻ thức tỉnh giác ngộ biết 
				rằng tâm mình chính là tâm Phật nên chỉ sống với tâm thanh tịnh 
				an lạc thanh nhàn mà không cần cầu Phật ở đâu xa. 
				
				 
				Đối với người sơ cơ thì Phật Thích Ca dạy có Phật A Di Đà ở cõi 
				Tây phương cách xa trái đất mười vạn ức cõi Phật, nhưng đây chỉ 
				là phương tiện, là Phật nói quyền giúp chúng sinh tin theo đó mà 
				niệm Phật để giải trừ vô minh, vọng chấp. Cũng ví như câu chuyện 
				tham tiền niệm Phật vậy. Ban đầu vì tham tiền mà niệm Phật, càng 
				niệm thì càng có nhiều tiền. Nhưng niệm đến khi vô niệm vô biệt 
				niệm tức là có được nhất tâm thì tiền cũng không tham, thấy tiền 
				như thấy rác. Do đó khi đã hiểu đạo rồi và một khi tâm mình được 
				thanh tịnh thì ở nơi đó và ngay trong thời điểm đó Phật A Di Đà 
				hiển hiện trong tâm của ta rồi. 
				
				Lúc ấy lầu vàng gác 
				tía cũng chẳng ham, vãng sinh cũng chẳng mong cầu vì sống với 
				chơn tâm thường trú và thể tánh tịnh minh là có Cực lạc, là được 
				vãng sanh rồi. Vì thế mà kinh Duy Ma Cật nói rằng “Tùy kỳ tâm 
				tịnh, tắc Phật độ tịnh” nghĩa là một khi tâm mình thật thanh 
				tịnh thì nơi ấy chính là cõi Phật A Di Đà. Vì thế mà Đức Phật 
				Thích Ca và biết bao đệ tử của Ngài ở đâu và bất cứ lúc nào tâm 
				cũng hằng thanh tịnh, tự tại Niết bàn. Ngược lại chúng sinh phàm 
				phu tâm bất tịnh, phiền não vô minh lúc nào cũng nổi dậy, lòng 
				còn tham đắm dục tình nên tu hành là phải xả bỏ mà lại muốn 
				hưởng cao sang phú quý và an dưỡng nơi giàu sang Cực lạc. 
				
				 
				Ngày xưa vua Trần Thái Tông rời cung điện nguy nga, leo trèo lặn 
				lội, núi hiểm suối sâu tìm lên núi Yên Tử để tìm Phật thì Quốc 
				sư Trúc Lâm nói rằng: “Trong núi vốn không có Phật, Phật chỉ ở 
				trong tâm. Tâm lặng mà biết gọi là Chơn tâm. Nay bệ hạ nếu ngộ 
				tâm này thì tức khắc thành Phật, không nhọc cầu bên ngoài.” 
				
				 
				Câu giảng rất nổi tiếng của Ngài Mã Tổ Đạo Nhất (đệ tử đời thứ 
				hai của Lục Tổ Huệ Năng) là “Tức Tâm Tức Phật”. Ngài đã giảng nó 
				như sau: “Phàm người cầu pháp nên không có chỗ cầu, ngoài tâm 
				không có Phật, ngoài Phật không có tâm, không lấy thiện chẳng bỏ 
				ác, hai bên nhơ sạch đều không nương cậy”. Ngài dạy thêm: “Vọng 
				tưởng đã trừ tức là vô sanh. Pháp tánh sẵn có, có chẳng nhờ tu”. 
				Ngài muốn nhắc nhở chúng sinh là ai ai cũng đều sẵn có Chơn tâm, 
				Phật tánh chớ không phải vì tu tập đắc đạo mới có. Ngài nhấn 
				mạnh rằng Tâm đó tức là Phật do đó nếu con người đi tìm Phật ở 
				ngoài Tâm đó là làm một điều vô ích chẳng khác nào “mang Phật đi 
				tìm Phật”. Sau cùng Mã Tổ còn dạy rằng: “Tâm bình thường là 
				Đạo”. Theo Ngài thì thế nào là tâm bình thường? Đó là không tạo 
				tác, không hơn thua phải trái, không thủ xả, không đoạn thường, 
				không phàm thánh. 
				
				 
				Vậy niệm Phật có những lợi ích gì? 
				
				 
				1) Nếu nói về Sự: 
				thì niệm Phật sẽ trừ được các phiền não. Tâm của chúng sinh cũng 
				như dòng nước luôn tuôn chảy, nếu pha những chất dơ bẩn thì nước 
				trở thành vẫn đục, nhơ nhớp. Ngược lại nếu pha vào dòng nước 
				những chất thơm tho thì nước sẽ trở thành thơm mát. Do đó nếu 
				tâm chỉ nghĩ đến những cảnh tượng phiền não khổ đau thì luôn 
				luôn sẽ bị phiền não khuấy đục. Ngược lại niệm Phật một giờ thì 
				có một giờ an lạc, một ngày thì có một ngày an lạc. Chúng sinh 
				hằng ngày chuyên nghĩ đến những điều tội lỗi như tham-sân-si…
				và miệng thốt 
				ra những lời tội ác, thân làm những việc xấu xa. Nay nếu biết 
				niệm Phật thì bộ ba thân, khẩu, ý không có cơ hội thực hành 
				những ác nghiệp, tâm trí sẽ sáng suốt, bệnh tật cũng vì thế mà 
				thuyên giảm và cuộc đời sẽ vô cùng an vui tự tại. 
				
				 
				2) Lợi ích về Lý: Khi hành giả niệm Phật đến chỗ nhất tâm bất 
				loạn thì không còn các vọng tưởng và chơn tâm thanh tịnh hiện 
				ra. Chơn tâm thường trú không sinh diệt hư hoại nên gọi là 
				“Thường” và thể tánh tịnh minh sáng suốt là “Quang” và tâm thanh 
				tịnh vắng lặng là “Tịch”. Do đó  cảnh “Thường, Tịch, Quang” 
				Tịnh độ chỉ ở nơi chơn tâm ta chớ không đâu khác. 
				
				Thêm nữa, chơn tâm 
				không hoại diệt là “Phật Vô Lượng Thọ”,  chơn tâm chiếu soi 
				vô tận là “Phật Vô Lượng Quang” và đó tức là “Thanh tịnh diệu 
				Pháp thân” của Phật A Di Đà.  Nói cho cùng, người niệm Phật 
				đến khi hết vọng, ngộ nhập chơn tâm rồi thì Phật A Di Đà hay 
				cảnh Tịnh độ cũng chỉ nơi tâm mình hiện ra, chớ không phải ở đâu 
				xa. Vì thế nên Kinh dạy rằng: “Tự tánh Di Đà, duy tâm Tịnh độ” 
				là vậy. Đến đây chắc có người sẽ thắc mắc về Phật A Di Đà và 
				cảnh giới cõi Cực lạc, chúng tôi xin kể lại câu chuyện của một 
				vị tăng hỏi Ngài Triệu Châu rằng: 
				
				 
				- Con chó có Phật tánh không? 
				Ngài Triệu Châu đáp: 
				- Có. 
				Vị tăng khác lại hỏi: 
				- Con chó có Phật tánh không? 
				Ngài Triệu Châu bây giờ đáp: 
				- Không. 
				Tại sao Ngài có lúc nói có, có lúc nói không? 
				
				 
				Ngài Triệu Châu chỉ dùng phương tiện mà phá cái chấp của chúng 
				sinh. Đối với người chấp có Phật tánh (Phật A Di Đà) thì Ngài 
				nói là không tức là dùng cái không để phá chấp có. Còn người 
				chấp không thì nói có nghĩa là dùng cái có để phá chấp không. 
				Phật tánh là chơn không, vô hình vô tướng thì làm sao diễn tả 
				được mà nói là có hay không. Con người phải lìa văn tự, ngữ ngôn 
				thì mới ngộ được chơn tâm, Phật tánh. Vì thế trong kinh Kim 
				Cang, Phật dạy rằng: “vô pháp khả thuyết gọi là thuyết pháp” 
				nghĩa là không có pháp để cho Như Lai thuyết bởi vì cái mà nói 
				được thì nằm trong vòng lẩn quẩn tương đối, sinh diệt còn chân 
				lý là pháp tuyệt đối, vô hình vô tướng, bất sinh bất diệt thì 
				làm sao nói được. Dó đó “có”
				hay “không” chỉ là phương tiện để đối trị với 
				bệnh chấp của chúng sinh. 
				
				 
				Trong kinh Lăng Già có câu: “lìa tứ cú, tuyệt bách phi”. 
				
				 
				Vậy thế nào là tứ cú? 
				
				 
				Có là cú thứ nhất, không là cú thứ nhì, cũng có cũng không là cú 
				thứ ba, chẳng có chẳng không là cú thứ tư.  Con người chấp 
				cái “có” thì Phật nói “không” để đối trị cái có. Chúng sinh chấp 
				“không” thì Phật thấy bệnh chấp vẫn còn nên dùng “có” để phá. 
				Chúng sinh thấy Phật phá có, phá không cho là “chẳng có, chẳng 
				không” thì lại chấp chẳng có, chẳng không. Phật thấy chúng sinh 
				bệnh chấp vẫn còn nên phải dùng “cũng có, cũng không” để phá. 
				Phật dùng phương tiện để phá mà chúng sinh tưởng thật nên tin 
				“cũng có, cũng không” là chân lý nên sau cùng Phật phải đối lại 
				“chẳng có, chẳng không”. Vì vậy có cũng phá, không cũng phá, 
				chẳng có chẳng không cũng phá, cũng có cũng không cũng phá nghĩa 
				là tứ cú đều phá hết, không trụ nơi có, không trụ nơi không, 
				không trụ nơi chẳng có chẳng không, không trụ nơi cũng có cũng 
				không tức là vô sở trụ thì lúc ấy Phật tánh (A Di Đà) mới hiện 
				tiền. 
				
				 
				Kinh dạy tiếp: “Đến đây thì như người ướp hương, thân có mùi 
				thơm gọi là Hương Quang Trang Nghiêm”. Đứng về mặt bản thể chơn 
				tâm mà nói, tâm Phật và tâm chúng sinh vốn nào có khác, cùng 
				đồng một bản thể thanh tịnh. Trong thế gian, phàm nhân dùng 
				tưởng tượng, dùng duy tư, dùng duy tưởng để nhận biết thì cái 
				biết này là “thế trí biện thông” nghĩa là cái biết, cái trí thức 
				thông thường còn sai lạc. Ngược lại, một người tâm đã định thì 
				cái định này như tấm gương, tịnh như nước lặng mới có thể đưa 
				hành giả thấy được chân tướng, thật tướng của nhân sinh vũ trụ, 
				có thể thấy rõ ràng quá khứ, hiện tại và vị lai. Đó là định tuệ 
				bình đẳng phát sinh tức là có định thì trước sau cũng phát sinh 
				trí tuệ. Khi đã có Bồ-đề, có giác ngộ thì tham-sân-si, mạn, nghi 
				biến mất. Những ô nhiễm trần thế không còn thì thân tâm bây giờ 
				hoàn toàn thanh tịnh, sáng suốt rỗng rang nên tỏa mùi hương 
				(Giới-Định-Tuệ) trang nghiêm khắp cùng thế giới. Vậy hương ở đây 
				chính là Giới-Định-Tuệ giải thoát, giải thoát tri kiến hương cho 
				nên nếu đem hương này chia cho toàn thể thế giới thì cũng không 
				bao giờ hết. Ngửi thấy mùi hương là thâm nhập giới, định, tuệ 
				hương nên có giải thoát làm cho thân tâm được thanh thoát nhẹ 
				nhàng. 
				
				 
				Thế nào là ngộ vô sanh nhẫn? 
				
				 
				Vô sanh nhẫn tức là vô sanh pháp nhẫn. Khi tư duy quán chiếu để 
				nhìn vạn pháp vô sanh thì cũng có nghĩa là nhìn vạn pháp vô 
				diệt. Thí dụ khi nhìn một nụ hoa thì làm sao biết được tánh vô 
				sanh của nó? Khi nhìn đóa hoa mới nở thì chắc chắn là nụ hoa 
				sanh và vài tuần sau, hoa tàn thì nói rằng nụ hoa diệt. Nhưng 
				đây chỉ là cái nhìn thiển cận của phàm nhân, còn cái nhìn của 
				Bồ-tát tu hành chứng đắc, ngộ được vô sanh là ngay trong lúc nụ 
				hoa mới nở thì cái sinh đã có diệt trong đó rồi. Ngược lại trong 
				lúc nó tàn úa thì các vị Bồ-tát lại nhìn cái diệt là bắt nguồn 
				cho cái sinh khác. Đó là hiện tượng quy về bản thể và bản thể 
				duyên khởi thành ra hiện tượng thành ra có cái gì là thật sinh 
				hay cái gì là thật diệt đâu. Nói cách khác sinh để rồi diệt, 
				diệt rồi lại sinh, sinh sinh diệt diệt vô cùng vô tận nên sinh 
				diệt, sống chết là chuyện thường, chẳng có gì quan trọng nên 
				không còn lo sợ, khổ đau. Chúng sinh khi thấy mình già yếu, bệnh 
				tật thì đau khổ buồn phiền. Ngược lại, đối với Bồ-tát thì sống 
				chết là chuyện bình thường, tử sanh là trò dâu biển nằm trong 
				chu kỳ bất biến tùy duyên rồi tùy duyên bất biến thế thôi. Vì 
				vậy với tuệ nhãn của Bồ-tát hay Phật nhãn của chư Phật thì nhìn 
				vạn pháp sanh mà không thật sanh và diệt nhưng không phải là mất 
				hẳn nghĩa là sinh để rồi diệt và diệt rồi để lại sanh, sinh sinh 
				diệt diệt vô cùng vô tận. Đây là chứng ngộ chân lý vô sanh pháp 
				nhẫn vậy. 
				
				 
				Trên đây là lối lý luận dựa theo tinh thần Bát Nhã vì thế người 
				chứng được vô sanh nhẫn là đã đạt đến trình độ Bát địa hay Cửu 
				địa trong Thập địa nghĩa là họ dùng tịnh niệm chân chính để diệt 
				trừ tà kiến, vọng tưởng và các thứ nhiễm ô tư tưởng. Nói cách 
				khác, trước kia thấy đời là năm thứ ác trược, bây giờ tâm thanh 
				tịnh rồi thì cũng cái thế giới đó mà thấy rất thanh tịnh. Vì thế 
				kinh Duy Ma Cật cũng dạy rằng: “Tùy kỳ tâm tịnh, tắc Phật độ 
				tịnh” nghĩa là một khi tâm mình thanh tịnh thì thế giới chung 
				quanh là cõi Phật thanh tịnh tức là tâm an thì thế giới an vậy. 
				
				 
				Kinh lại dạy rằng: “Phật chẳng độ chúng sinh” nghĩa là tâm Phật 
				và tâm chúng sinh vốn đồng một thể, nhưng chúng sinh chạy theo 
				tâm sinh diệt, tâm hư vọng nên thấy toàn tướng hư vọng. Đến khi 
				tâm được hoàn toàn thanh tịnh, rỗng rang thì chơn tâm, Phật tánh 
				hiển bày. Vì thế Phật chẳng độ là khả năng tự chứng được hay 
				không là do công phu của chính mình tức là tự lực. Ngài Đại Thế 
				Chí chỉ nhờ chuyên cần niệm Phật tức là hoàn toàn nhờ vào khả 
				năng tự lực mà chứng được vô sanh pháp nhẫn, có được trí tuệ 
				trong sáng, viên thông tự tại. Trong 48 đại nguyện của Phật A Di 
				Đà có 31 điều mà hàng Bồ Tát, nhơn, thiên phải tự lực tu hành. 
				Có 16 điều nói về những thù thắng của cõi Cực lạc. Chỉ có một 
				điều, đó là điều thứ 18 liên hệ đến tha lực của Phật A Di Đà. 
				Điều 18 đại ý nói rằng: “Thập phương chúng sinh chí tâm tín mộ 
				muốn sinh về cõi Cực lạc chỉ cần 10 niệm là được toại nguyện, 
				trừ kẻ phạm tội ngũ nghịch, phỉ báng chánh pháp”. Nhưng trong 31 
				điều tự lực, hành giả phải dùng Thiền định để đạt được “Niệm 
				Phật Nhất Tâm bất loạn” mà chứng được Bát Nhã tam muội, Không 
				tam muội và Vô Tranh tam muội… 
				
				 
				Có một Thiền sư tu đắc đạo, đạt được minh tâm kiến tánh nên danh 
				tiếng truyền tới kinh thành. Nhà vua rất ái mộ, sai quan lớn lên 
				núi thỉnh Thiền sư về kinh thành để vua hỏi pháp. Thỉnh một lần 
				cũng không đi, hai lần cũng không đi đến lần thứ ba vua nổi giận 
				mà phán rằng : 
				
				 
				- Nếu kỳ này thỉnh Thiền sư không đi thì đem cái đầu ông ấy về 
				kinh thành. 
				Viên đại quan lên núi thuật lại với Thiền sư và lời phán của vua 
				và nói rằng: 
				- Tôi không dám lấy đầu của Ngài, nhưng tôi về không thì vua sẽ 
				lấy đầu của tôi. Ngài hãy thương tôi mà đi. 
				Thiền sư đáp : 
				- Đi thì đi. 
				Rồi Thiền sư hỏi trong số đệ tử có ai muốn đi theo không? 
				Có một đệ tử ra nói: 
				- Con theo thầy đi. 
				Thiền sư hỏi: 
				- Một ngày con đi được mấy dặm? 
				- 50 dặm. 
				Thiền sư đáp: 
				- Không được. 
				Đệ tử khác nói: 
				- Con xin đi theo thầy? 
				- Một ngày con đi bao nhiêu dặm? 
				- 70 dặm. 
				- Không được 
				Một đệ tử khác cũng xin đi. 
				- Một ngày con có thể đi bao nhiêu đặm. 
				- 90 dặm. 
				- Không được. 
				Người nào cũng không được, sau cùng người thị giả nói: 
				- Con xin theo thầy. 
				Thiền sư lại hỏi : 
				- Một ngày con đi bao nhiêu dặm? 
				Thị giả đáp : 
				- Không biết, thầy đến đâu thì con đến đó. 
				Thiền sư hài lòng : 
				- Vậy là được. 
				
				 
				Thiền sư ngồi ngay lại liền tịch diệt (nhập diệt) và người Thị 
				giả cũng tịch theo luôn. Quan lớn thấy thế hoảng sợ, chứng tỏ 
				oai quyền của vua chỉ áp chế cho người thường, chớ không thể áp 
				dụng cho bậc chứng đắc được. Bởi vì Thiền sư đạt được minh tâm 
				kiến tánh, chứng vô sanh pháp nhẫn nên sanh tử tự do, nói đi là 
				đi liền. 
				
				 
				Sau khi thành đạo, Đại Thế Chí Bồ Tát nguyện hướng dẫn người 
				niệm Phật để có được tịnh độ. Vì thực hành “Như huyển Tam-ma-đề” 
				nên Bồ Tát thấy mình là huyển, vào huyển thế gian, độ cho huyển 
				chúng sinh đắc thành huyển quả và có huyển tịnh độ. Đối với Bồ 
				Tát thì trên đời này chẳng có cái gì là thật cả. Nếu thế gian là 
				không thật thì tịnh độ làm sao thật được? Các Ngài vào thế gian 
				để giáo hóa, hướng dẫn chúng sinh biết niệm Phật, biết nhiếp tâm 
				vào câu niệm Phật để hóa giải hết vọng tưởng, phân biệt, chấp 
				trước mà có được nhất tâm. Nhất tâm chính là chơn tâm, là tự 
				tánh thanh tịnh bản nhiên của tất cả mọi người. Nếu chúng sinh 
				niệm danh hiệu Phật A Di Đà để dẹp trừ vọng tưởng, chấp trước 
				thì mỗi câu niệm sẽ quét sạch vọng tưởng làm tâm thanh tịnh. 
				
				Ví như ngọn đèn vốn 
				sáng, nhưng vì gió lay động làm ánh sáng bị lu mờ. Nếu bây giờ 
				chụp cái bóng che gió vào thì ngọn đèn sẽ bừng sáng. Do đó, nếu 
				chúng sinh suốt ngày trì niệm danh hiệu Phật A Di Đà, biết chú 
				tâm vào hồng danh nầy khi làm việc, lúc nghỉ ngơi cho đến lúc 
				nhất tâm bất loạn thì cái ảo ảnh nhị nguyên của vô minh, cái tâm 
				phân biệt, có chúng sinh có Phật sẽ chấm dứt và họ sẽ chứng ngộ 
				được chân lý nhiệm mầu ngay. Khi tâm đã hoàn toàn thanh tịnh thì 
				cảnh Tịnh độ cũng chỉ nơi tâm mình hiện ra, chớ không phải đâu 
				xa bởi vì cảnh giới cho dù là tận hư không cùng khắp pháp giới 
				đều là do tâm tánh con người biến hiện. 
				
				 
				Vậy thế nào là nhiếp trọn sáu căn? 
				
				 
				Đại Thế Chí Bồ Tát “nhiếp trọn sáu căn” là Ngài làm chủ sáu căn 
				của mình không cho nó chạy theo khách trần phiền não. Sáu căn, 
				sáu trần tự chúng là bản nhiên thanh tịnh phát xuất từ Như Lai 
				Tạng bản thể thì làm gì có tội lỗi, xấu xa. Nhưng nếu con người 
				không biết tự chủ mà để cho sáu căn dính mắc nơi sáu trần thì 
				vọng tưởng mê lầm chắc chắn sẽ xảy ra. Đức Phật và các đại đệ tử 
				của Ngài cũng còn nguyên mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý như tất 
				cả mọi người, nhưng vì biết tự chủ sáu căn nên các Ngài luôn có 
				Bồ Đề và tâm thường trụ Niết bàn. Các vị Tổ của Tịnh độ phát 
				minh ra sâu chuỗi có 18 hột là biểu tượng cho sáu căn, sáu trần 
				và sáu thức. Khi niệm Phật, hành giả nắm chắc từng hột một nghĩa 
				là thu nhiếp từng căn không cho nó chạy tán loạn trong trần 
				cảnh. Cái khó khăn nhất của pháp môn này là khi không niệm Phật, 
				không thu nhiếp được sáu căn thì vọng tưởng sẽ nổi dậy trở lại, 
				vì “Định” chỉ có thể kềm chế chớ không tiêu diệt được “vọng 
				tưởng”. Chỉ khi nào từ Định sang Tuệ thì vọng thức mới bị tiêu 
				trừ. Vì vậy Ngài Đại Thế Chí dạy chúng sinh phải thực hành tịnh 
				niệm tương tục. 
				
				 
				Tịnh là không còn tạp niệm, không còn vọng tưởng. Vậy “tịnh niệm 
				tương tục” có nghĩa là niệm Phật liên tục, không gián đoạn, ngày 
				này qua ngày nọ, tháng này qua tháng nọ, năm này qua năm nọ, đời 
				đời kiếp kiếp không lúc nào ngừng nghỉ cho đến khi đạt được nhất 
				tâm. Có được nhất tâm bất loạn tức là tâm đã định và khi tâm 
				định thì trí tuệ sáng suốt sẽ phát sinh nghĩa là chứng đắc 
				Tam-ma-đề tức là định-tuệ viên dung hay là định-tuệ không “hai”. 
				
				 
				Người tu Tịnh độ nói rằng pháp môn niệm Phật rất dễ, trăm người 
				tu trăm người chứng, ngàn người tu ngàn người chứng. Thực tế có 
				dễ như vậy chăng? Pháp môn niệm Phật được xếp hạng thứ 24, chỉ 
				đứng sau Quán Thế Âm nhĩ căn viên thông, thì tầm mức của nó dĩ 
				nhiên rất là quan trọng, nhiệm mầu. Nếu người niệm Phật chỉ 
				trong một sát na để tâm chạy theo ngũ dục lạc của thế gian là 
				sắc, tài, danh lợi, ăn ngon, ngủ nghỉ thì làm sao còn là tịnh 
				niệm được? Dựa theo Ngài Đại Thế Chí Bồ Tát thì nhiếp trọn sáu 
				căn nghĩa là mắt không thấy tướng xấu đẹp, tai không nghe tiếng 
				khen chê, mũi không ngửi mùi thơm thúi, lưỡi không nếm mùi ngon 
				dở, thân không tiếp xúc nóng lạnh ấm êm và ý không phân biệt 
				buồn vui, thương ghét cho đến khi đạt được công phu nhất tâm bất 
				loạn. Nếu nói dễ thì quý vị đã nhiếp trọn sáu căn, tịnh niệm 
				tương tục được chưa? Hay dễ hơn là có nhiếp được căn nào không? 
				Tịnh niệm còn không có tức là hằng ngày chỉ nghĩ nhớ ngũ dục lạc 
				của thế gian thì là sao có được niệm trong sạch mà nói dễ hay 
				khó? 
				
				 
				Vậy khó, dễ là do tâm mình tạo chứ không phải các pháp khó dễ. 
				Không giống như các viên thông ở đoạn kinh trước, chỉ lựa chọn 
				từng căn để hạ thủ công phu, ở đây Ngài Đại Thế Chí Pháp Vương 
				Tử nhiếp phục cả sáu căn, quy cả sáu căn đều thâu về nơi nhất 
				niệm niệm Phật, không để tán loạn dong ruổi theo ngoại duyên. 
				Tịnh niệm thường nối đuôi, không xen tạp một niệm nào khác mà 
				chứng được niệm Phật tam muội tức là có được chánh định mà đạt 
				đến cứu cánh nhất tâm bất loạn, giải thoát viên thông tự tại. 
				
				 
				Thế nào là Cực Lạc? 
				
				 
				Cực Lạc là cực kỳ an lạc, không còn khổ. Có thể hiểu đó là cõi 
				tâm hoàn toàn thanh tịnh, an lạc. Con người vì có nhiều tham đắm 
				với hình tướng nên Phật mới đưa ra phương tiện hình ảnh để dụ 
				chúng sinh hồi đầu thị ngạn. Cũng như trong kinh Pháp Hoa, Phật 
				dùng phương tiện dạy chúng sinh hiện đang ở trong căn nhà lửa. 
				Nếu biết sự tai hại của lửa tham sân si, đốt cháy cả tâm linh 
				thì nên hồi quy một lòng niệm Phật. Dần dần niệm Phật sẽ thay 
				thế toàn bộ ác niệm khiến tâm tịnh dần và đi tới thuần tịnh thì 
				có cõi Tịnh độ rồi. Khi ấy hành giả sống trong an lạc, trong cõi 
				Cực Lạc ngay trong cõi đời này tức là “Tùy kỳ tâm tịnh, tắc Phật 
				độ tịnh” vậy. 
				
				 
				Vì thế Ngài Đại Thế Chí Bồ Tát nói rằng: “Nếu đứng trên cương vị 
				của tôi, với kinh nghiệm tu hành và sở đắc của bản thân tôi từ 
				vô lượng kiếp cho đến nay và nếu hỏi tôi pháp môn nào là thù 
				thắng nhất thì tôi xin thưa rằng tôi không chú ý đến các pháp 
				môn khác, chỉ pháp môn thâu nhiếp lục căn, tịnh niệm luôn luôn 
				tương tục, đắc tam-ma-đề, là đệ nhất”. 
				
				 
				Sau cùng, cổ thi có câu : 
				
				 
				“Ngày trước đầu đường còn ruỗi ngựa, 
				Hôm nay trong quách đã nằm yên”. 
				
				 
				Hoặc là : 
				
				 
				“Chớ hẹn đến già rồi niệm Phật, 
				Đồng hoang mồ trẽ thấy đông người”. 
				
				 
				Chúng sinh nếu muốn phòng ngừa cơn vô thường chợt đến, mỗi thời 
				khắc phải gắng chăm niệm Phật. Như thế, gặp giây phút cuối cùng 
				mới không bối rối, hốt hoảng tay chân như Tô Đông Pha. Vô thường 
				và bệnh chết nó đến với mọi người bất cứ lúc nào và bất cứ ở đâu 
				cho nên người học Phật đã biết nó như thế thì không sợ vô thường 
				và coi thường bệnh chết. Vì thế cổ nhân cũng có câu: 
				
				 
				”Mạc đãi lão lai phương niệm Phật, 
				Cô phần đa thị thiếu nguyên nhân” 
				
				 
				Nghĩa là cái bệnh chết nó đến bất cứ lúc nào và bất cứ ai cho 
				nên không phải già mới chết mà tuổi trẻ đầu xanh vẫn chết như 
				thường vì thế chúng sinh cần tu tâm, niệm Phật ngay bây giờ chớ 
				đừng đợi đến lúc già, lúc gần chết mới tu. Tóm lại, dưới cái 
				nhìn của phàm phu thì sanh tử là ưu bi khổ não, là buồn khổ đau 
				thương vì phải xa lìa tất cả những gì mà con người yêu thương 
				lưu luyến. Cũng vì có bản ngã và ngã sở nên chúng sinh thấy 
				mình, người và vũ trụ là thật, là chắc chắn, là của mình nên khi 
				phải lìa xa nó thì dĩ nhiên sẽ đau khổ vô cùng. Khi đã biết rõ 
				những khổ đau, bất toàn như thế thì con người cố niệm Phật để 
				lìa xa thế gian tội lỗi nầy mà có được sự an vui tịch diệt của 
				Niết bàn. 
				
				Nhưng dưới cái nhìn 
				tuệ giác của Bồ Tát hay Phật nhãn của chư Phật thì “vạn pháp 
				giai không” nghĩa là một khi con người lìa Tướng trạng mà thấy 
				được thật Tánh của mình thì sinh tử là Không và ngay cả Niết bàn 
				cũng là Không bởi vì cuộc đời là giả huyễn, là không thật nên 
				sinh là không, tử là không và Niết bàn cũng là không. Không cột 
				thì cần gì phải tháo gút, không ràng buộc thì cũng không cần 
				giải thoát và không sanh thì không có diệt. Thêm nữa, vì quán 
				biết sinh tử là không nên sinh không tham cầu và dĩ nhiên không 
				sợ cái chết. Khi không còn chấp ngã thì không quan trọng cho cái 
				thân giả huyển nầy, sống thì an vui tự tại, không chạy theo tham 
				đắm dục tình và lúc ra đi cũng an nhiên tự tại không lo, không 
				sợ, không buồn, không tiếc. Vì thế nếu chúng sinh quán “vạn pháp 
				giai không” để biết “nhiếp trọn sáu căn” và “tịnh niệm tương 
				tục” thì dễ đạt đến niệm Phật tam muội mà có được nhất tâm. Nhất 
				tâm là có tâm tự tại, tâm thanh tịnh tức là có Niết bàn, cực lạc 
				rồi cần gì phải tìm cầu ở đâu xa. 
				
				
				 |  
				 |